Hiển thị các bài đăng có nhãn Vật liệu xây dựng. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Vật liệu xây dựng. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

Tiêu thụ giảm, sản xuất vật liệu xây dựng ngừng trệ

Theo thống kê của Bộ Xây dựng, nhu cầu sử dụng và sức tiêu thụ các loại vật liệu xây dựng đều giảm khiến sản xuất trong lĩnh vực này ngừng trệ.

Hầu hết các nhà máy đều không phát huy hết công suất, tồn kho tăng cao nhất là đối với sản phẩm gạch bêtông khí chưng áp, gạch ốp lát và kính xây dựng.



Dù tổng công suất thiết kế các nhà máy ốp lát của cả nước đạt tới trên 400 triệu m2 (bao gồm granite, ceramic, cotto) nhưng hiện nhiều nhà máy đã phải dừng sản xuất khoảng 2 đến 3 tháng vì tiêu thụ chậm. Công suất khai thác thấp, chỉ vào khoảng dưới 50% nhưng lượng tồn kho vẫn lớn. Cùng có lượng hàng tồn kho lớn trong nhóm vật liệu xây dựng là mặt hàng kính xây dựng với sức tiêu thụ rất kém.

Sản phẩm tồn kho trung bình của mặt hàng kính nổi của cả nước tương đương với lượng kính sản xuất trong 5 tháng. Cá biệt có doanh nghiệp tồn kho tới 6 tháng sản xuất. Trong khi đó, sản phẩm kính cán có 4 dây chuyền đã phải dừng sản xuất tới 3 dây chuyền; kính gia công tiếp tục chịu sức ép cạnh tranh của kính Trung Quốc nên cũng phải giảm sản lượng từ 40- 50%.

Riêng ximăng vẫn là sản phẩm có sản lượng tiêu thụ khá nhất so với các chủng loại vật liệu xây dựng khác nhưng các nhà máy cũng chỉ dám phát huy khoảng 82% công suất thiết kế. Hiện cả nước có 67 dây chuyền ximăng lò quay, với tổng công suất khoảng 68 triệu tấn, trong đó tổng công suất thiết kế có thể huy động được khoảng dưới 66 triệu tấn.

Tuy nhiên, Bộ Xây dựng cho biết đã rà soát các dự án ximăng dự kiến hoàn thành trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2015 và kiến nghị Chính phủ cho phép giãn, hoãn tiến độ một số dự án; thậm chí đưa ra khỏi Quy hoạch một số dự án không còn phù hợp để giảm bớt lượng cung trong thời gian tới.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Xây dựng đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính thành lập đoàn khảo sát, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ximăng thuộc các thành phần kinh tế.

Bộ Xây dựng đã kiến nghị với Chính phủ các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, định hướng cho ngành ximăng phát triển bền vững như: cơ cấu lại các khoản nợ; tuân thủ quy hoạch ximăng; chuyển nhượng cổ phần, giảm vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp ximăng thua lỗ và chuyển vốn nhà nước về các doanh nghiệp có thế mạnh.

Cùng đó, năm 2013, Bộ Xây dựng tiếp tục nghiên cứu, đề xuất chính sách và giải pháp để tận dụng chất thải từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón đốt bằng than để làm nguyên liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp. Nhờ đó, tiết kiệm diện tích đất đai dùng làm bãi chứa thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời tạo nguồn nguyên liệu thay thế nhập khẩu để làm phụ gia cho sản xuất ximăng, các vật liệu khác, giảm gánh nặng nhập siêu cho nền kinh tế.

Theo Thu Hằng
TTXVN
Tags: Valves, Kitz valves, Yoshitake valves

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

Tiêu thụ giảm, sản xuất vật liệu xây dựng ngừng trệ

Theo thống kê của Bộ Xây dựng, nhu cầu sử dụng và sức tiêu thụ các loại vật liệu xây dựng đều giảm khiến sản xuất trong lĩnh vực này ngừng trệ.

Hầu hết các nhà máy đều không phát huy hết công suất, tồn kho tăng cao nhất là đối với sản phẩm gạch bêtông khí chưng áp, gạch ốp lát và kính xây dựng.



Dù tổng công suất thiết kế các nhà máy ốp lát của cả nước đạt tới trên 400 triệu m2 (bao gồm granite, ceramic, cotto) nhưng hiện nhiều nhà máy đã phải dừng sản xuất khoảng 2 đến 3 tháng vì tiêu thụ chậm. Công suất khai thác thấp, chỉ vào khoảng dưới 50% nhưng lượng tồn kho vẫn lớn. Cùng có lượng hàng tồn kho lớn trong nhóm vật liệu xây dựng là mặt hàng kính xây dựng với sức tiêu thụ rất kém.

Sản phẩm tồn kho trung bình của mặt hàng kính nổi của cả nước tương đương với lượng kính sản xuất trong 5 tháng. Cá biệt có doanh nghiệp tồn kho tới 6 tháng sản xuất. Trong khi đó, sản phẩm kính cán có 4 dây chuyền đã phải dừng sản xuất tới 3 dây chuyền; kính gia công tiếp tục chịu sức ép cạnh tranh của kính Trung Quốc nên cũng phải giảm sản lượng từ 40- 50%.

Riêng ximăng vẫn là sản phẩm có sản lượng tiêu thụ khá nhất so với các chủng loại vật liệu xây dựng khác nhưng các nhà máy cũng chỉ dám phát huy khoảng 82% công suất thiết kế. Hiện cả nước có 67 dây chuyền ximăng lò quay, với tổng công suất khoảng 68 triệu tấn, trong đó tổng công suất thiết kế có thể huy động được khoảng dưới 66 triệu tấn.

Tuy nhiên, Bộ Xây dựng cho biết đã rà soát các dự án ximăng dự kiến hoàn thành trong thời gian từ năm 2012 đến năm 2015 và kiến nghị Chính phủ cho phép giãn, hoãn tiến độ một số dự án; thậm chí đưa ra khỏi Quy hoạch một số dự án không còn phù hợp để giảm bớt lượng cung trong thời gian tới.

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Xây dựng đã phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính thành lập đoàn khảo sát, đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ximăng thuộc các thành phần kinh tế.

Bộ Xây dựng đã kiến nghị với Chính phủ các giải pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn, định hướng cho ngành ximăng phát triển bền vững như: cơ cấu lại các khoản nợ; tuân thủ quy hoạch ximăng; chuyển nhượng cổ phần, giảm vốn góp của nhà nước tại các doanh nghiệp ximăng thua lỗ và chuyển vốn nhà nước về các doanh nghiệp có thế mạnh.

Cùng đó, năm 2013, Bộ Xây dựng tiếp tục nghiên cứu, đề xuất chính sách và giải pháp để tận dụng chất thải từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón đốt bằng than để làm nguyên liệu sản xuất cho các ngành công nghiệp. Nhờ đó, tiết kiệm diện tích đất đai dùng làm bãi chứa thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đồng thời tạo nguồn nguyên liệu thay thế nhập khẩu để làm phụ gia cho sản xuất ximăng, các vật liệu khác, giảm gánh nặng nhập siêu cho nền kinh tế.

Theo Thu Hằng
TTXVN
Tags: Valves, Kitz valves, Yoshitake valves

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

Thị trường thép sẽ “ấm” lên?

Bước sang năm 2013, với những dự báo không mấy sáng sủa từ thị trường, ngành thép sẽ phải tiếp tục đương đầu với nhiều khó khăn.


Sản phẩm thép trong nước đang phải cạnh tranh khốc liệt với thép nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc. Ảnh: TRẦN VIỆT

Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, VNsteel phải tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống phân phối bởi đây là một trong những mặt hàng do Nhà nước điều hành bình ổn giá cả, cung - cầu. Việc phát triển hệ thống phân phối giúp cho ngành thép phát triển được thị trường, giảm tình trạng dư thừa, đầu cơ tăng giá ảnh hưởng đến sản xuất và người tiêu dùng.
“Tắc” đầu ra

Năm 2012, ngành thép phải đối diện với 3 giảm cùng lúc là tiêu thụ giảm, giá giảm, sản xuất giảm. Đây cũng là năm thứ hai liên tiếp nhu cầu tiêu thụ thép của Việt Nam tăng trưởng âm. Bên cạnh đó, việc thép NK giá rẻ từ Trung Quốc tràn vào ngày càng nhiều và cạnh tranh gay gắt với sản phẩm thép trong nước đã gây khó khăn lớn cho DN. Mức tiêu thụ giảm, lượng thép NK tăng làm cho DN sản xuất trong nước phải giảm sản lượng, sản xuất cầm chừng. Số liệu thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, sản lượng thép các loại sản xuất trong nước đạt 9,1 triệu tấn, trong đó thép xây dựng là 5 triệu tấn, thép ống đạt 0,6 triệu tấn, tôn mạ các loại đạt 1,3 triệu tấn... Trong khi đó, lượng thép xây dựng tiêu thụ đạt 4,5 triệu tấn, giảm 10% so với 2011. Thế nhưng, lượng tiêu thụ các loại thép khác như thép ống, thép cuộn cán nguội, cán tôn mạ kẽm tăng 20-40% đã kéo tổng tiêu thụ ngành thép cả nước trong năm 2012 tăng 3% so với 2011.

Theo ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), khó khăn nhất trong ngành thép năm nay dồn về các DN thép xây dựng do tác động của thị trường bất động sản “đóng băng” kéo dài. Với quan điểm này, ông Vũ Bá Ổn, Phó Tổng giám đốc Tổng Công ty Thép Việt Nam (VNsteel) cho biết, các công ty sản xuất phôi thép, thép dẹt và ống thép có tăng trưởng, còn lại các mặt hàng khác hiệu quả thấp so với năm 2011, thậm chí có những công ty không có lãi. Trong VNsteel có 41 đơn vị nhưng đến 10 đơn vị kinh doanh lỗ trong năm 2012. Ông Vũ Bá Ổn cho biết thêm, có những tháng phần lớn các nhà máy chỉ chạy 40 - 50% công suất, thậm chí 30% công suất để duy trì sản xuất và giữ chân người lao động. Cần chính sách kích cầu

Trong năm 2013, VNsteel vẫn đặt mục tiêu kinh doanh có lãi và sản xuất có sự tăng trưởng. Cụ thể, sản xuất phôi thép đạt 1.415.000 tấn, tăng 12% so với năm 2012, sản xuất và tiêu thụ thép cán đạt 2.484.000 tấn, tăng 7,5-9% so với năm 2012.

Bộ Công Thương dự báo, sản lượng toàn ngành thép trong năm 2013 tăng 2%, đạt 9,33 triệu tấn đáp ứng đủ nhu cầu thép trong nước và XK. Đứng trên góc độ DN, ông Ổn nhận định, với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng hợp lý và giảm lạm phát, chính sách tiền tệ và chính sách tài chính chặt chẽ của Chính phủ sẽ tiếp tục tác động không nhỏ tới nhu cầu sử dụng thép. Vì vậy, thị trường thép xây dựng nội địa sẽ “ấm” lên chút ít với mức tăng trưởng từ 4-4,5% so với năm 2012. Tuy nhiên, thị trường thép xây dựng, thép tấm lá trong nước tiếp tục phải cạnh tranh quyết liệt với các sản phẩm ngoại nhập cũng như với sản phẩm của Công ty China Steel Sumikin Việt Nam khi Công ty này tham gia thị trường với công suất lớn lên tới 1,2 triệu tấn.

Do vậy, để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm thép trong nước trong điều kiện công suất sản xuất thép của Việt Nam đã vượt so với nhu cầu, các DN sản xuất thép thuộc VSA sẽ tiếp tục đẩy mạnh XK sang thị trường khu vực và các nước. Ngoài việc DN tự tìm đầu ra, ông Ổn cho rằng, Chính phủ cần có chính sách kích cầu với ngành Xây dựng và các ngành tiêu thụ sản phẩm thép nhằm giúp DN ngành thép tăng sản lượng tiêu thụ, tăng công suất, giảm chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, cần có biện pháp triệt để thực hiện Quy hoạch phát triển ngành thép, không để xảy ra cung vượt cầu như hiện nay, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường nội địa, thiệt hại cho DN và gây lãng phí cho nền kinh tế. Các rào cản kỹ thuật cũng cần sớm ban hành để kiểm soát chất lượng thép, đặc biệt thép có chứa hợp kim Bo; quy định thép NK phải có logo sản phẩm để ngăn chặn thép NK kém chất lượng, bảo vệ các DN sản xuất thép trong nước.

Trước những kiến nghị trên, Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng cho rằng, chính sách kích cầu với xây dựng và tiêu thụ sản phẩm thép, trong năm 2012 Nhà nước đã từng bước tháo gỡ và tiếp tục thực hiện trong năm 2013. Liên quan đến việc ban hành tiêu chuẩn, quy phạm và hàng rào kỹ thuật, Bộ Công Thương sẽ trao đổi Bộ Khoa học và Công nghệ. “Bộ cũng sẽ cùng Bộ Tài chính xem lại lộ trình thuế suất trong khuôn khổ cam kết khi gia nhập WTO có thể điều chỉnh được không. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đề nghị VNsteel và VSA tham gia ý kiến giúp các bộ xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật cho sát thực hơn bởi nếu để Bộ Công Thương và Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng thì tiêu chuẩn này không sát với thực tế lắm”, ông Hoàng cho biết.

Theo Phan Thu (Báo Hải Quan)
Tags: Valves, Kitz valves, Yoshitake valves

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

Mắc áo thép Việt Nam bị áp thuế chống phá giá

Mỹ sẽ ban hành lệnh áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp với mắc áo thép Việt Nam. Đây là quyết định của Bộ Thương mại Mỹ hôm 16/1.


Mắc áo thép do Việt Nam sản xuất. Ảnh khai thác

Quyết định này được đưa ra sau khi USITC khẳng định có tồn tại những thiệt hại đáng kể với ngành sản xuất mắc áo nội địa do bị bán phá giá và trợ cấp nhập khẩu từ Việt Nam gây ra. Vì vậy, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) sẽ ban hành lệnh áp thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp tương đương với biên độ phá giá và trợ cấp đối với mặt hàng này.

Cụ thể, thuế chống trợ cấp 31,58-90,42% và thuế chống bán phá giá 157-220,68%.

Nguồn tin: VTV
Tags: Sat thep, Thep hop, Thep vuong, Ong thep, Dich vu ve sinh NVD

Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

Tôn mạ màu có nguy cơ bị kiện bán phá giá

Sau khi thép cuộn nguội Việt Nam bị Indonesia áp thuế chống bán phá giá 13,5 - 36,6%, đến lượt tôn mạ màu có nguy cơ bị Thái Lan kiện chống bán phá giá do lượng xuất sang Thái Lan tăng đột biến những tháng gần đây.

Theo thông tin Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online có được từ Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) ngày 15-1, Hiệp hội Tôn mạ kim loại và Sơn phủ màu Thái Lan cuối năm 2012 tiếp tục đưa ra cảnh báo lần thứ hai rằng họ đang cân nhắc việc điều tra chống bán phá giá hoặc có biện pháp tự vệ chống lại các nhà sản xuất thép mạ phủ Việt Nam.

Phía Thái Lan cho rằng sau lần cảnh báo thứ nhất vào tháng 10-2012, đến nay xuất khẩu tôn mạ sang Thái Lan đã không giảm mà còn tăng đột biến những tháng gần đây.

Cụ thể, nếu từ tháng 11-2011 đến tháng 7-2012 lượng tôn mạ phủ màu Việt Nam xuất sang Thái Lan dao động từ 1.000 - 3.000 tấn/tháng, bước sang tháng 8 và tháng 9-2012 đã tăng lên khoảng 6.000 tấn và tiếp đến tháng 10-2012 lượng xuất khẩu sang Thái Lan đã tăng lên đến gần 10.000 tấn.

Theo VSA, tính đến hết tháng 11-2012, tổng lượng thép xuất khẩu của Việt Nam đạt hơn 2 triệu tấn với kim ngạch hơn 1,6 tỉ đô la Mỹ.

Trong thư cảnh báo lần thứ hai gửi VSA vào cuối tháng 12-2012, ông Korrakod Padungjitt, Chủ tịch Hiệp hội Tôn mạ kim loại và Sơn phủ màu Thái Lan khẳng định việc xuất khẩu sản phẩm mạ phủ từ Việt Nam đang gây tổn hại lớn cho các nhà sản xuất trong nước Thái Lan.

Điều này khiến Hiệp hội Tôn mạ kim loại và Sơn phủ màu Thái Lan cân nhắc đến các biện pháp tự vệ hoặc chống bán phá giá đối với việc xuất khẩu ồ ạt thép mạ và phủ màu của Việt Nam sang Thái Lan.

Từ cảnh báo trên, VSA gần đây đã có công văn gửi các công ty tôn mạ trong nước để chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với vụ kiện trên và đề nghị các công ty liên quan đến xuất khẩu mặt hàng tôn mạ kim loại sơn phủ màu sang thị trường Thái Lan cần kiểm soát lượng và giá xuất khẩu, tránh làm phức tạp thêm tình hình.

Theo VSA, hiện nay tổng công suất đối với sản phẩm tôn mạ kim loại sơn phủ màu của Việt Nam đã đạt 2,6 triệu tấn/năm, vượt xa nhu cầu thực tế trong nước. Đứng trước tình hình này, các doanh nghiệp buộc phải đẩy mạnh xuất khẩu, song khi xuất khẩu lại đối mặt với kiện chống bán phá giá cũng như bị áp dụng biện pháp tự vệ của một số nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước.

Mặc dù lượng thép xây dựng tiêu thụ trong năm 2012 chỉ đạt 4,5 triệu tấn, giảm 10% so với 2011, thế nhưng lượng tiêu thụ các loại thép khác như thép ống, cuộn cán nguội, cán tôn mạ kẽm trong năm nay tăng từ 20 - 40% nên đã kéo tổng tiêu thụ ngành thép cả nước trong năm 2012 tăng 3% so với 2011.

Với những khó khăn còn tiếp diễn trong năm 2013 thì hiệp hội thép đưa ra dự báo lượng thép tiêu thụ ngành thép Việt Nam trong năm 2013 chỉ tăng chừng 2-3%.

Nguồn tin: KTSG

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

CIS nâng giá chào phôi thanh tháng 02

Một hợp đồng phôi thanh ngắn hạn chốt với khách hàng Thổ Nhĩ Kỳ bất ngờ đã tăng lên đến 560 USD/tấn cfr hôm thứ Sáu vừa qua. Sỡ dĩ đạt được mức giá này là do xu hướng tăng giá phôi thanh tháng 01 từ tuần trước, hơn nữa các nhà cung cấp CIS cũng đã chào bán phôi tháng 02 với giá cao hơn đến 35 USD/tấn so với tháng 01.

Giữa tuần trước, 10.000 tấn phôi thanh Nga đã được bán cho một nhà cán lại Thổ Nhĩ Kỳ với giá cao hơn trước đó 4 USD/tấn.

Tuy nhiên giá tại Platts hôm thứ Sáu chỉ nhích tăng 2 USD/tấn lên 539 USD/tấn fob Biển Đen mà thôi. Dường như giới thị trường vẫn rất thận trọng với xu hướng tăng hiện tại, hơn nữa họ cũng khá cảnh giác vì có thể giá quặng sẽ không còn tăng nóng nữa.

Chào bán phôi thanh tháng 02 từ một nhà sản xuất Nga hiện đang ở mức 545 USD/tấn fob Biển Đen (dùng cho loại thương phẩm), còn phôi thanh dùng sản xuất cuộn trơn thì có giá khoảng 550 USD/tấn fob Biển Đen. Cả hai mức giá này cao hơn 35 USD/tấn so với chào bán sản xuất tháng 01 hồi giữa tháng 12.

Thị trường Ai Cập trong tuần rồi khá trầm lắng do những tuần trước đó khách hàng cũng đã đặt mua một số lượng nhất định. Các đơn đặt mua phôi tháng 02 từ Trung Đông bắt đầu tăng kể từ cuối tuần rồi. Những khách hàng lớn từ Ả Rập Saudi cũng khẳng định họ sẽ quay lại thị trường vào tuần tới.

Mặc dù giá quặng trong 02 ngày cuối tuần trước đã giảm một vài USD, nhưng dường như so với giá phế (CFR Thổ Nhĩ Kỳ) thì giá quặng (CFR Trung Quốc) vẫn tăng mạnh và cao hơn 20% so với thời điểm mới bắt đầu tăng trong tháng 12.

Nguồn tin: Satthep.net

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

Tồn kho vật liệu xây dựng hàng nghìn tỷ đồng

Sự trầm lắng, trì trệ của thị trường bất động sản đã đẩy các ngành liên quan như: thép, gạch, xi măng... vào tình cảnh chịu sức ép tồn kho lớn, phải thu hẹp sản xuất, đối mặt với thua lỗ, thậm chí ngừng hoạt động.

Theo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), tình hình tiêu thụ thép vẫn đang diễn ra trầm lắng. Tháng 8, thép tiêu thụ 356.000 tấn trong khi cùng kỳ năm ngoái sức tiêu thụ là 500.000 tấn. Hiện lượng thép tồn kho đang lên đến hơn 300.000 tấn. Hầu hết doanh nghiệp ngành này đều đang cắt giảm sản xuất xuống dưới 60% công suất, thậm chí có đơn vị ngừng sản xuất.

Trong khi đó, theo Hiệp hội xi măng Việt Nam, doanh nghiệp ngành này đang phải đối mặt với việc bị thua lỗ. Gạch ốp lát khai thác 70% công suất, sức mua giảm, tồn 1,2-1,3 triệu m2. Sứ vệ sinh tồn hơn một triệu sản phẩm. Tổng lượng tồn kho ngành gạch lên đến hơn 3.000 tỷ đồng. Trong khi đó, hiệp hội tấm lợp thừa 30% sản lượng.

Nhiều công ty thép, xi măng niêm yết trên sàn TP HCM và Hà Nội đang tồn kho hàng nghìn tỷ đồng. Theo báo cáo hợp nhất 6 tháng của Tập đoàn Hòa Phát và các công ty con, đơn vị này tồn kho 6.910 tỷ đồng, tăng hơn 8% so với cùng kỳ năm ngoái. Còn báo cáo tài chính tổng hợp quý 3 niên độ 2012, từ ngày 1/4 đến 30/6 của Tập đoàn Hoa Sen có hàng tồn kho 1.159 tỷ đồng.

Tính đến ngày 30/6, Công ty cổ phần thép Dana - Ý tồn kho hơn 515 tỷ đồng. Công ty cổ phần Tập đoàn Thép Tiến Lên có lượng hàng tồn kho giảm hơn 30% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng vẫn còn ứ đọng 544 tỷ đồng.


Các công trình chậm tiến độ do thiếu vốn cũng khiến vật liệu xây dựng nghẽn đầu ra vì nhà cung cấp vật tư, đơn vị thi công và chủ đầu tư đều không thể tất toán các chi phí xây dựng. Ảnh: Vũ Lê

Tình hình của các doanh nghiệp xi măng cũng không khá hơn là bao. Báo cáo nửa năm của Công ty cổ phần xi măng Hà Tiên 1 tính đến ngày 30/6, doanh nghiệp này tồn kho trị giá 1.105 tỷ đồng. Kế đến là các Công ty Vicem Bỉm Sơn, Bút Sơn, Hoàng Mai có tổng lượng hàng tồn kho hơn 1.200 tỷ đồng.

Trong bản báo cáo tình hình quản trị 6 tháng đầu năm, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần xi măng Tiên Sơn Hà Tây, Nguyễn Thế Nhậm cho biết, lợi nhuận của doanh nghiệp đang giảm vì trên thị trường cung lớn hơn cầu, hàng không thể bán giá cao. Sản lượng tiêu thụ xi măng, đá xây dựng, gạch không nung chỉ đạt 70-75% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trước đó, tại Hội thảo Vực dậy nguồn lực bất động sản diễn ra ở TP HCM, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam cho biết: "Không chỉ có bất động sản mà các ngành liên quan như vật liệu xây dựng cũng đang điêu đứng".

Ông Nam cho hay, ngành sản xuất xi măng bình thường tồn kho trên dưới 1 triệu tấn nhưng tính đến tháng 6 là 3 triệu tấn, chưa tính tồn kho ở các đại lý. Vật liệu ốp lát tồn đọng khoảng 50 triệu mét vuông, tương đương trên 2 tháng sản xuất; kính xây dựng cực kỳ căng thẳng, tồn kho 5 tháng sản xuất và đang trong tình trạng rất nguy cấp; thép tồn kho 225.000 tấn. Trong tháng 6, một số nhà máy xi măng đã đóng cửa.

Cuối tháng 8, Bộ Xây dựng đã có buổi làm việc với các hiệp hội và doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn, cụ thể là giải quyết vấn đề tồn kho trong lĩnh vực này.

Mới đây, ngày 16/9, Tập đoàn C.T Group đã tổ chức hội nghị Cơ hội bán vật liệu xây dựng cho 24 dự án bất động sản mà tập đoàn này đang thi công hoặc sắp thực hiện trong thời gian tới. Ngoài ra, C.T Group còn tổ chức chương trình hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu vật liệu xây dựng sang Myanmar để mở rộng thị trường.


Dự án bất động sản đình trệ kéo theo vật liệu xây dựng tồn kho chồng chất. Ảnh: Vũ Lê

Tổng giám đốc Công ty C.T Myanmar (thành viên của Tập đoàn C.T Group), Phan Thành Nhơn cho biết: "Trong thời gian tới, nhu cầu về vật liệu xây dựng tại Myanmar rất lớn phục vụ đầu tư hạ tầng, xây dựng cơ sở vật chất. Đây là thị trường mới nhiều tiềm năng nhưng Việt Nam chưa khai phá".

Khảo sát của C.T Myanmar, nhu cầu xi măng tại Myanmar khoảng 5,35 triệu tấn mỗi năm. Nội địa chỉ đáp ứng được 65%, thị phần còn lại nhập khẩu từ Thái Lan và Trung Quốc. Về sắt thép, mỗi năm nước này cần khoảng 500.000 tấn nhưng sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 1%. Tương tự, khả năng sản xuất gạch xây dựng ở nước này hiện chỉ đáp ứng 70% nhu cầu, thị phần còn lại đều nhập khẩu.

Phó chủ tịch Hội vật liệu xây dựng Việt Nam, Nguyễn Quang Cung nhận xét, giữa lúc thị trường nội địa khó khăn, tìm cơ hội xuất khẩu vật liệu xây dựng cũng là một giải pháp cải thiện đầu ra.

Theo ông Cung, việc xuất khẩu có thể không mang lại nhiều lợi nhuận nhưng lại giúp giải quyết phần nào khó khăn về hàng tồn hiện nay. Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng muốn giải quyết hàng tồn kho vật liệu xây dựng, cần phải khơi thông bất động sản vì hai thị trường này có liên hệ mật thiết.

Tổng thư ký thường trực Hiệp hội bất động sản TPHCM (Horea), Đỗ Thị Loan nhận định, giá vật liệu xây dựng Việt Nam vẫn còn cao hơn so với nhiều sản phẩm nhập khẩu là một điểm yếu.

Thực trạng hiện nay, để cắt giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm, nhiều chủ đầu tư bất động sản đã dùng vật liệu Trung Quốc có giá rẻ hơn 20-30% và sẵn sàng bỏ quên hàng nội địa. "Do đó, điều quan trọng là vật liệu xây dựng Việt Nam phải tìm cách thắng trên sân nhà rồi mới tính đến việc cạnh tranh với các đối thủ ở thị trường bên ngoài", bà nói.

Vũ Lê 

Thứ Sáu, 11 tháng 1, 2013

Công ty vật liệu xây dựng theo nhau giảm chỉ tiêu

Còn một tháng nữa là hết năm, nhưng một loạt công ty xây dựng vẫn xin cổ đông cho giảm chỉ tiêu kinh doanh, thậm chí hoãn chia cổ tức.

Xin ý kiến cổ đông về việc giảm 95% kế hoạch lợi nhuận trước thuế, từ 40 tỷ về 2 tỷ đồng, Công ty cổ phần Đầu tư Xây dựng Vinaconex - PVC (PVV) là đơn vị mạnh tay nhất trong số 11 doanh nghiệp trong ngành vật liệu xây dựng thông báo giảm chỉ tiêu kinh doanh năm 2012. Theo nghị quyết HĐQT, doanh thu PVV cũng được điều chỉnh giảm 39%, từ 950 tỷ đồng về 578 tỷ đồng và không chia cổ tức trong năm nay - mặc dù trước đó, công ty dự kiến chia cổ tức từ 5% đến 10%.


Hiện gần 40 doanh nghiệp niêm yết trên 2 sàn đang xin cổ đông giảm chỉ tiêu kinh doanh trong năm 2012, trong đó ngành vật liệu xây dựng chiếm hơn một phần tư, với 11 đơn vị. Ảnh: Vũ Lê


Hôm nay (28/11), HĐQT Vinaconex - PVC sẽ thực hiện việc xin ý kiến cổ đông bằng văn bản về quyết định điều chỉnh kế hoạch kinh doanh 2012. Trong trường hợp được thông qua, quý IV, PVV phải lãi trên 36 tỷ đồng trước thuế mới đạt được mục tiêu điểu chỉnh (9 tháng, PVV lỗ 34,2 tỷ đồng).

Tuy nhiên mục tiêu có lãi trong quý IV đối với PVV sẽ là một thách thức. Bởi kết quả lợi nhuận âm trong quý III vừa qua cũng là quý thứ 4 liên tiếp PVV chìm trong thua lỗ. Đồng thời theo giải trình của PVV, suy thoái kinh tế là một trong những nguyên nhân doanh thu xây lắp và bất động sản của công ty giảm mạnh. Mà suy thoái kinh tế, theo các chuyên gia, có thể sẽ còn kéo dài qua cả năm 2013.

4 công ty con của Vinaconex là Công ty cổ phần Xây dựng số 5 (VC5), Công ty cổ phần Vinaconex 6 (VC6), Công ty cổ phần Xây dựng số 7 (VC7), Công ty cổ phần Xây dựng số 9 (VC9) cũng thông báo xin ý kiến cổ đông về việc giảm kế hoạch kinh doanh năm 2012.

Trong đó, VC9, đầu tháng 11, sau khi công bố kết quả kinh doanh 9 tháng (tổng doanh thu trên 553 tỷ đồng, lãi trước thuế đạt 16,6 tỷ đồng) đã điều chỉnh kế hoạch kinh doanh 2012 giảm 8,88% tổng doanh thu (từ 872,2 tỷ đồng về 781,9 tỷ đồng), giảm 10,81% lợi nhuận trước thuế (từ 26,8 tỷ về 23,9 tỷ đồng) và tỷ lệ cổ tức giảm từ 16% còn 14%.

Với kế hoạch điều chỉnh này, ban lãnh đạo VC9 sẽ “nhẹ gánh” hơn trên 51 tỷ, khi chỉ còn cách đích gần 229 tỷ đồng về doanh thu thay vì trên 280 tỷ đồng nếu chưa điều chỉnh. Đồng thời, đích của lợi nhuận trước thuế cũng còn 7,3 tỷ đồng, thay vì 10,2 tỷ đồng.

2 đơn vị khác của Vinaconex là VC5 và VC6, theo nghị quyết HĐQT cũng lần lượt điều chỉnh lợi nhuận trước thuế từ 19 tỷ đồng, 13,05 tỷ đồng về 14 tỷ đồng và 10,44 tỷ đồng. Đồng thời tỷ lệ cổ tức của VC5 mẹ điều chỉnh từ 14% về 10%, và VC6 điều chỉnh tỷ lệ cổ tức từ 10% về 8%.


Một năm khó khăn của ngành vật liệu xây dựng và bất động sản. Ảnh: Hoàng Lan

Đối với VC7, từ 19/11 đến 2/12 sẽ là thời hạn để công ty xin ý kiến cổ đông bằng văn bản về việc điều chỉnh một số chỉ tiêu kinh doanh 2012. Tuy nhiên, không thấy những con số điều chỉnh cụ thể trong các thông báo công khai của VC7 được đưa ra.

Theo báo cáo tài chính, 9 tháng, doanh thu thuần của VC7 đạt trên 157 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế gần 2,7 tỷ đồng, giảm gần 80% so với cùng kỳ năm 2011. Còn theo kế hoạch kinh doanh 2012 của VC7 đã được ĐHCĐ thông qua, doanh thu dự kiến 325 tỷ đồng, bằng 110% thực hiện năm 2011, lãi trước thuế dự kiến 14,5 tỷ đồng, bằng 128,5% thực hiện năm 2011, tỷ lệ chia cổ tức 12%. So với kế hoạch, 9 tháng, VC7 mới thực hiện được chưa đầy một nửa mục tiêu về doanh thu và gần 20% về lợi nhuận trước thuế.

Một số đơn vị khác trong ngành vật liệu xây dựng cũng đưa ra kế hoạch kinh doanh điều chỉnh giảm, như Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng HUD3 (HU3), Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng số 18 (L18), Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng Bưu điện (PTC), Công ty cổ phần Đầu tư - Phát triển Sông Đà (SIC), Công ty cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Địa ốc Tân Kỷ (TKC), Công ty cổ phần Viglacera Thăng Long (TLT). Mẫu số chung của các đơn vị này cũng là kết quả kinh doanh không mấy khả quan trong 9 tháng đầu năm.

Trong đó, riêng PTC, ngày 16/11, với tỷ lệ chấp nhận dưới 75% số cổ phần có quyền biểu quyết, công ty đã không thể thông qua được việc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh. Theo đó, kế hoạch doanh thu giữ nguyên là 342,1 tỷ, lãi trước thuế là 16,6 tỷ và tỷ lệ cổ tức là 5%. Như vậy, lũy kế 9 tháng, PTC chưa hoàn thành một phần ba kế hoạch doanh thu, và đang cách khá xa kế hoạch lợi nhuận khi lỗ gần 27 tỷ đồng.

Nói về việc điều chỉnh mục tiêu kinh doanh, theo lãnh đạo của một đơn vị, chủ yếu là do khó khăn chung của thị trường. Đồng thời, công ty không muốn chạy đua theo chỉ tiêu sẽ dẫn tới áp lực cho các đơn vị thành viên. Vị này cũng cho rằng, đây là giai đoạn cần triệt để tập trung giải quyết hàng tồn kho, chuẩn bị nguồn lực cho khi thị trường hồi phục.

Theo một chuyên gia phân tích doanh nghiệp, việc giảm chỉ tiêu kinh doanh của các công ty như thế này năm nào cũng diễn ra. Chuyên gia này nhận định: “Đây chủ yếu là làm nhẹ đi sức ép của cổ đông về kết quả kinh doanh và làm đẹp báo cáo tài chính là chủ yếu. Thêm vào đó, cũng có thể là vấn đề lương thưởng, lương thưởng của ban lãnh đạo cũng bị giảm đi nếu các mục tiêu không hoàn thành”.

Nhận định về việc tại sao lại phải giảm kết quả kinh doanh vào thời điểm còn hơn một tháng nữa là năm tài chính 2012 kết thúc, chuyên gia này cho rằng: “Đừng tưởng việc giảm chỉ tiêu này không quan trọng, có thể với mình nhỏ thì không cần. Nhưng phải đặt mình vào cái ghế của các vị tổng giám đốc, sức ép của họ vô cùng lớn, việc hoàn thành chỉ tiêu là rất quan trọng”.

Trả lời chất vấn trên nghị trường Quốc hội ngày 13/11, Bộ trưởng Bộ Xây dựng - Trịnh Đình Dũng khẳng định, tồn kho bất động sản có ảnh hưởng trực tiếp đến những ngành có liên quan như vật liệu xây dựng. Theo số liệu của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, hiện, gạch ốp lát vật liệu xây dựng nung và không nung, đặc biệt là kính xây dựng tồn kho khá nhiều, tương đương với hai tháng sản xuất. Riêng xi măng, tồn kho tuy giảm nhưng vẫn bằng 17 ngày sản xuất, tức là 2,57 triệu tấn.

Cũng theo số liệu của Bộ trường, hiện, tổng giá trị tồn kho bất động sản ước tính khoảng 40.750 tỷ đồng, tập trung tại tất cả các dự án từ nhà chung cư, nhà ở thấp tầng, văn phòng, trung tâm thương mại... "Hiện nay là giai đoạn khó khăn nhất của thị trường bất động sản, và chắc chắn vẫn phải tiếp tục khó khăn", ông Dũng đánh giá.

Hàn Phi

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

Tấm thạch cao - sự lựa chọn của nhà thiết kế

Sự phát triển về khoa học và công nghệ đã cho ra đời nhiều loại vật liệu xây dựng ưu việt, thân thiện với môi trường. Điều này góp phần giúp các kiến trúc sư, nhà thiết kế tạo ra những không gian sống sang trọng, tiện nghi.

Nổi trội trong các loại vật liệu xây dựng ưu việt hiện nay là tấm thạch cao.



Từ lâu, nhà ở tại nhiều nơi không còn trần nhà phẳng lỳ đến lạnh toát và đâu đó những thanh đà to lớn ngang dọc khô khan hay bức tường gạch tạo dáng nặng nề thô ráp không còn phù hợp với nhịp sống hiện tại. Thay vào đó, tấm thạch cao nhẹ và dễ tạo hình giúp các nhà thiết kế đi đến tận cùng trong sự tìm kiếm không gian sống sang trọng.

Trần và tường với khung chìm có hoa văn đã tạo nên sự đa dạng. Bên cạnh đó, chúng không chỉ được thiết kế vuông góc sắc cạnh theo tỷ lệ vàng mà còn có thể được tạo dáng uốn lượn với những đường cong phóng khoáng, thậm chí giật cấp tạo không gian ấn tượng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Thêm vào đó, cách bố trí đèn trên trần và tường sẽ tạo nên không gian rực rỡ hoành tráng hoặc lung linh huyền ảo, lãng mạn.



Vật liệu sản xuất tấm thạch cao không mùi, tự nhiên và có sẵn phổ biến trong thiên nhiên. Quy trình sản xuất chúng được kiểm tra chặt chẽ để trở thành một vật liệu xây dựng không chứa chất độc hại. Vì thế, sản phẩm thạch cao nổi tiếng là thân thiện với môi trường và có khả năng chống cháy, cách nhiệt, cách âm.

Chúng cũng ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe. Một cách tự nhiên, thạch cao điều hòa khí hậu trong nhà và tạo nên môi trường sống khỏe mạnh. Các nhà nghiên cứu cho biết: khi sử dụng máy lạnh trong phòng được thiết kế bởi trần và tường bằng thạch cao, nhiệt độ nhanh lạnh hơn khi phòng được thiết kế bởi xi măng hay gỗ. Vì thế, sản phẩm thạch cao là sự lựa chọn tối ưu để giảm thiểu tiêu thụ năng lượng và bảo vệ không gian nội thất.



Hiện, các sản phẩm thạch cao được sử dụng phổ biến trên thế giới và trong các khu dân cư, cao ốc. Các chức năng và tính thẩm mỹ đặc trưng đã khiến chúng trở thành một trong những sự lựa chọn hàng đầu về vật liệu xây dựng trên hầu hết các quốc gia.

Kiến trúc sư Nguyễn Hiển
Công ty Kiến trúc Nhiệt Đới

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

Ngành thép: Giải bài toán nhập siêu còn quá xa vời!

Theo ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước chưa có dấu hiệu hồi phục vững chắc, dự báo ngành công nghiệp thép trong nước năm 2013 chỉ có thể duy trì sản lượng sản xuất và tiêu thụ như năm 2012 và nếu có tăng chỉ ở mức khiêm tốn, từ 2%-3%.


Ảnh chỉ mang tính minh họa (Nguồn: Internet)

Xung quanh những vấn đề như xuất khẩu, tồn kho..., ông Phạm Chí Cường đã có buổi trao đổi với phóng viên Vietnam+ về bức tranh của ngành thép.

PV: Xin ông cho biết những kết quả đạt được của ngành thép trong năm 2012?

- Ông Phạm Chí Cường: Nếu như trước năm 2000 chỉ có công ty thép của Nhà nước là Tổng Công ty Thép Việt Nam và 5 liên doanh giữa Tổng Công ty thép với nước ngoài thì sau năm 2000, Việt Nam đã có đủ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào ngành thép.

Quy mô đầu tư cũng ngày một lớn, hiện đã có những dự án đầu tư hàng tỷ USD đi vào sản xuất và mới đây là khu Liên hợp thép có quy mô trên 22 triệu tấn thép/năm ở khu công nghiệp Vũng Áng (Hà Tĩnh) với giai đoạn I, công suất 7,5 triệu tấn thép/năm, dự kiến sẽ hoàn thành vào khoảng năm 2015.

Cho tới nay, với năng lực sản xuất của các nhà máy trong nước, chúng ta đã có thể đáp ứng được 100% nhu cầu thép thanh, thép cuộn phi 6- phi 8 mmm, thép hình cỡ nhỏ, 100% ống thép hàn, thép mạ kim loại, thép phủ mầu và cuộn thép cán nguội để làm nguyên liệu cho các nhà máy mạ kim loại và phủ mầu hiện có ở Việt Nam.

Tuy nhiên, một số chủng loại thép do trong nước chưa sản xuất được nên vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất phôi thép (thép phế) và một phần than mỡ để luyện cốc vẫn phải nhập khẩu.

Ước tính, lượng phôi thép sản xuất năm 2012 đạt 5,05 triệu tấn (tăng 3,1% so với năm 2011) và thép thành phẩm là hơn 9 triệu tấn (giảm 0,8% so với năm 2011).

Còn về nhập khẩu các sản phẩm thép vào Việt Nam, cho tới nay, ngành công nghiệp thép của Việt Nam mới chỉ sản xuất được một số sản phẩm chủ yếu là thép xây dựng (thép thanh, thép cuộn, thép hình cỡ trung), thép ống hàn, thép mạ kim loại (Al, Zn, Sn), thép phủ mầu, thép cuộn cán nguội. Các chủng loại thép khác như thép cuộn cán nóng, thép hợp kim, thép chế tạo cơ khí,... còn phải nhập khẩu.

Trong năm 2011, ngành thép đã nhập khẩu tổng cộng 9,847 triệu tấn thép và nguyên liệu sản xuất thép với tổng kim ngạch nhập khẩu là 7,52 tỷ USD; trong khi xuất khẩu và tái xuất khẩu thép và nguyên liệu sản xuất chỉ đạt khoảng 2 triệu tấn với tổng kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 2,3 tỷ USD nên nhập siêu của ngành thép năm 2011 là trên 5,2 tỷ USD.

Ước tính lượng thép và nguyên liệu thép năm 2012 nhập khẩu vào Việt Nam trên 7 triệu tấn và nhập siêu vẫn trên mức 5 tỷ USD.

PV: Tồn kho của ngành thép nhiều thời điểm cũng đáng lo ngại, vậy ông dự báo năm tới sẽ thế nào thưa ông?

- Ông Phạm Chí Cường: Theo tôi mức tồn kho ở các đơn vị sản xuất hiện chỉ khoảng từ 300.000-400.000 nghìn tấn, tức là chưa bằng lượng tiêu thụ một tháng. Do vậy, ở mức này là bình thường, không đáng lo ngại.

Thực tế, các doanh nghiệp trong ngành phải giữ mức tồn kho như vậy vì vốn lưu động lớn, lãi suất ngân hàng cao, trong bối cảnh nền kinh tế chưa có sự hồi phục vững chắc nếu để tồn kho cao thì chắc không chịu được chi phí tài chính.

Còn về con số phá sản của ngành thép chưa có số liệu nào được công bố nhưng năm 2012 thì các thành viên trong hiệp hội có khoảng 5-6 doanh nghiệp tạm ngừng sản xuất.

PV: Năm 2012 xuất khẩu thép cũng giúp giải phóng một lượng lớn hàng tồn kho của doanh nghiệp. Vậy năm nay, hướng xuất khẩu có gặp thuận lợi và khó khăn gì không thưa ông?

- Ông Phạm Chí Cường: Mặc dù Việt Nam mới tham gia xuất khẩu thép tới các nước trên thế giới, nhưng từ năm 2010 đã có mức tăng trưởng cao. Theo số liệu thì năm 2012 lượng thép xuất khẩu đạt gần 2 triệu tấn, Điều đó chứng tỏ đã có nhiều sản phẩm thép của Việt Nam đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế và có khả năng cạnh tranh với sản phẩm thép của nước ngoài.

Tuy nhiên, Việt Nam chưa được công nhận là nước có nền kinh tế thị trường và mới tham gia xuất khẩu trong bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu rất khốc liệt, sự bảo hộ ở các nước nhập khẩu đối với sản phẩm sản xuất trong nước cũng ngày càng cao. Vì vậy, Việt Nam đã phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá đối với sản phẩm cuộn cán nguội xuất khẩu vào Indonesia và Thái Lan, ống thép hàn vào Mỹ và đang bị một số nước cảnh báo sẽ khởi kiện đối với thép mạ kim loại và sơn phủ màu.

Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang nỗ lực tìm các thị trường mới để mở rộng xuất khẩu sản phẩm thép, tìm đầu ra cho sản phẩm thép sản xuất ở Việt Nam, giảm nhập siêu cho ngành thép.

PV: Ông dự báo thế nào về ngành công nghiệp thép của Việt Nam trong năm tới?

- Ông Phạm Chí Cường: Năm 2013 tình hình kinh tế ở một số nước đã hồi phục nhưng cũng chưa thoát khỏi khó khăn, nhất là ở các nước lớn như Mỹ, Nhật, các nước EU… Do vậy, tiêu thụ thép toàn thế giới theo dự báo của Hiệp Hội Thép Thế giới (WSA) chỉ đạt 1,455 tỷ tấn, tăng 3,2% so với năm 2012 (dự báo trước đây về tiêu thụ thép thế giới 2012 là 1,486 tỷ tấn).

Tình hình kinh tế trong nước tuy đã được điều chỉnh bằng nhiều biện pháp mạnh của Chính phủ trong năm 2012, nhưng để có những chuyển biến cụ thể trong nền kinh tế, cũng cần phải có thời gian.

Trong bối cảnh đó, tôi cho rằng những khó khăn mà ngành thép sẽ gặp phải trong năm 2013 là công suất sản xuất thép trong nước của một số sản phẩm như thép xây dựng, thép ống, thép mạ kim loại và sơn phủ màu, thép cuộn cán nguội vượt quá xa nhu cầu trong nước; trong khi kinh tế trong nước đang khó khăn, tiêu thụ thép giảm, dẫn tới dư thừa, tồn kho, phải cắt giảm sản xuất.

Việc xuất khẩu sản phẩm thép cũng gặp khó khăn khi các nước áp dụng nhiều chính sách bảo hộ, hạn chế nhập khẩu và nhiều vụ kiện phá giá đối với sản phẩm thép Việt Nam xuất khẩu sang các nước.

Bên cạnh đó, các hiệp định tự do thương mại giữa Việt Nam ký với các nước khi Việt Nam gia nhập WTO ngày càng có hiệp lực với mức thuế nhập khẩu giảm dần tới 0% đã làm cho sự cạnh tranh giữa thép trong nước với thép nhập khẩu của nước ngoài (đặc biệt là thép nhập từ Trung Quốc) càng trở nên khốc liệt. Tình trạng lách luật, gian lận thương mại sẽ ngày càng phổ biến.

Với những khó khăn nêu trên, dự báo ngành công nghiệp thép trong nước năm 2013 chỉ có thể duy trì với sản lượng sản xuất và tiêu thụ như năm 2012 và nếu có tăng chỉ ở mức khiêm tốn so với năm 2012.

Xin cảm ơn ông./.
Theo Đức Duy (Vietnam+)

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2013

2013: thị trường gạch ngói còn khó khăn

Đi cùng sự “đóng băng” của thị trường bất động sản là cả một hệ thống ngành hàng liên quan (sắt thép, xi măng…) cũng rơi vào bế tắc, trong đó có nghề sản xuất gạch, ngói ở miền Tây. Theo đánh giá của giới doanh nghiệp sản xuất gạch ngói, tình trạng này sẽ tiếp tục kéo dài trong năm 2013.


Trong ảnh là công nhân đang làm việc tại cơ sở gạch, ngói Đức Thành, ấp An Thuận, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, Đồng Tháp - Ảnh: Trung Chánh

Duy trì giữ chân lao động

Là một người có hơn sáu năm gắn bó với nghề sản xuất gạch ngói tại Đồng Tháp, ông Lương Văn Minh, ấp An Thạnh, xã An Hiệp, huyện Châu Thành cho biết: “Trước đây nghề sản xuất gạch, ngói cũng có thời gian xuống thấp nhưng kéo dài chỉ vài ba tháng là cùng, còn bây giờ ế ẩm suốt cả năm vẫn chưa thấy phục hồi gì hết”.

Thị trường gạch, ngói xây dựng gặp khó khăn bắt nguồn từ thị trường bất động sản “đóng băng”, tuy nhiên, có không ít cơ sở, doanh nghiệp vẫn duy trì hoạt động theo kiểu cầm chừng để giữ chân lao động. “Cơ sở tôi có 3 miệng lò nhưng giờ đốt (hoạt động) một miệng thôi. Duy trì chủ yếu để giữ chân lao động gắn bó với mình chờ lúc thị trường ấm lại, chứ cũng không mong có lãi lúc này đâu”, ông Minh cho biết.

Ông Bùi Thiện Thông, Giám đốc doanh nghiệp Đức Thành, ấp An Thuận, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, Đồng Tháp, cho biết doanh nghiệp ông có tổng cộng 7 miệng lò nhưng hiện cũng chỉ hoạt động 50 – 60% công suất.

“Bây giờ ai cũng vậy hết, chủ yếu duy trì hoạt động để công nhân gắn bó với mình, chờ vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay”, ông Thông cho biết.

Theo đánh giá của giới doanh nghiệp sản xuất gạch, ngói xây dựng, thị trường bất động sản “đóng băng”, nguyên liệu đầu vào như trấu, đất làm gạch, lãi suất ngân hàng… cao là những nguyên nhân đẩy nghề sản xuất gạch, ngói gặp khó.

“Giá trấu mấy năm trước rẻ nhưng hiện nhu cầu sử dụng nhiều, ở mấy khu công nghiệp chất đốt người ta cũng chuyển sang sử dụng trấu, làm cung không đủ dẫn đến giá tăng đến 700 – 800 đồng/kí lô gam, tức tăng 3 - 4 lần so với mấy năm trước”, ông Minh cho biết.

Ông Thông từ doanh nghiệp Đức Thành, cho biết nguyên nhân của vấn đề xét cho cùng do lãi suất ngân hàng quá cao. “Lãi suất ngân hàng như hiện nay ai làm gì được? Xây căn nhà 1 tỉ đồng mà nếu mình thiếu 300 - 400 triệu đồng, đi vay ngân hàng mà lãi trong vòng hai, ba năm cộng với tiền gốc tăng đến 500 - 600 triệu thì ai mà dám làm?”, ông Thông cho biết thêm.

Khó khăn còn phía trước

Khép lại một năm buồn với nghề sản xuất gạch, ngói ở miền Tây khi số doanh nghiệp, cơ sở còn bám trụ với nghề ngày một ít do lỗ lã liên tục tiếp diễn. Bước sang năm 2013, nhận định của nhiều doanh nghiệp, chủ cơ sở sản xuất tình hình này vẫn chẳng mấy khả quan hơn.

“Năm 2013, tình hình sản xuất gạch, ngói xây dựng chắc cũng không thể được vực dậy lại được đâu, ngoại trừ thị trường bất động sản “tan băng”, ông Trần Văn Bé, chủ một cơ sở gạch, ngói ở xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít, Vĩnh Long cho biết.

Theo ông Bé, thị trường bất động sản có liên quan rất lớn đến nhiều lĩnh vực. “Em nhìn vào cái nhà đi, có biết bao nhiêu ngành nghề trong đó từ dây diện, sơn, xi măng đến sắt thép, gạch ngói… Nếu cái nhà không làm được thì nó sẽ làm cả một hệ thống, trong đó có gạch, ngói cũng “chết” theo”, ông Bé cho biết.

Ông Thông từ doanh nghiệp Đức Thành, cho biết thị trường gạch, ngói chỉ khởi sắc lại khi nhà nước sắp xếp lại hoạt động sản xuất và lãi suất vay ngân hàng. “Bây giờ cần phải sắp xếp, quy hoạch sản xuất lại thôi, chẳng hạn, huyện này (huyện Châu Thành, Đồng Tháp) quy hoạch bao nhiêu miệng lò, huyên kia bao nhiêu miệng, như vậy mới có thể giúp ngành nghề gạch, ngói mau chóng ổn định lại”, ông Thông cho biết.

Theo thống kê của Phòng Công Thương huyện Mang Thít, Vĩnh Long, toàn huyện có 1.037 cơ sở sản xuất gạch, gốm với trên 2.130 miệng lò. Tính đến nay, có trên 80% số miệng lò tạm ngưng hoạt động.

Theo Trung Chánh (TBKTSG)

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2013

Gạch Việt đang mơ được "cứu" như Prime?

(CafeBiz) Dẫu đại gia gạch lớn nhất tạm ấm chỗ trong kỳ ngủ đông của BĐS, gạch ốp lát Việt vẫn đành nằm im chờ "chết"...

Thương vụ Siam Cement Group (SCG) mua lại 85% cổ phần của Prime Group đã gây xôn xao dư luận trong thời gian qua. Xôn xao một phần vì giá trị thương vụ khá lớn (7,2 tỷ baht xấp xỉ 5.000 tỉ đồng), một phần vì ngành gạch ốp lát hiện tại của Việt Nam thực sự không phải là một thị trường béo bở để đầu tư.



Thời bất động sản còn chưa đóng băng, nhiều cổ phiếu ngành gạch là những khoản đầu tư “hái ra tiền”. Bản thân ngành sản xuất gạch ốp lát Việt Nam cũng đứng đầu Đông Nam Á và đứng thứ 6 thế giới với năng lực sản xuất hơn 400 triệu mét vuông gạch mỗi năm. Nhiều cái tên trong gạch ốp lát trong nước đã đạt tầm cỡ khu vực và thế giới như Viglacera, Đồng Tâm và nhất là Prime, tập đoàn được tạp chí World Ceramics xếp là DN sản xuất gạch lớn thứ 5 trên thế giới và đứng đầu tại Việt Nam.

Thế nhưng, khủng hoảng kinh tế và sự đóng băng của thị trường bất động sản đã khiến việc kinh doanh đảo chiều 180 độ, ngành gạch ốp lát hiện đang trong tình trạng tồn "chết dần".

Trong 2 năm qua, các doanh nghiệp nổi tiếng trong ngành nay như Viglacera, Taicera, Đồng Tâm, liên tục báo cáo thua lỗ. Riêng Prime Group, doanh nghiệp sản xuất gạch ốp lát lớn nhất Việt Nam với thị phần nội địa khoảng 20% tuy vẫn có lãi nhưng lợi nhuận cũng không nhiều.

Ông Đinh Quang Huy- Chủ tịch Hiệp hội Gốm sứ xây dựng Việt Nam- cho biết, hiện mức tồn kho của gạch ốp lát đã vượt gấp 2 lần mức bình thường với giá trị tồn kho đạt khoảng 3.000 tỉ đồng.

Trong đơn xin giải cứu các DN ngành bộ Xây dựng vừa gửi tới Chính phủ tháng 9/2012 vừa qua, ước tính lượng tồn kho gạch ốp lát toàn ngành khoảng 60 triệu m2, trong đó 40 dây chuyền đã phải dừng sản xuất.



Nhiều công ty gạch doanh thu cao nhưng lợi nhuận gần bằng 0 thậm chí còn âm

Sự đi xuống đó đã kéo theo không ít DN sản xuất gạch nổi tiếng một thời. Công ty gạch Đồng Tâm trong báo cáo tài chính cuối năm 2011 đã công bố mức lỗ khủng lên tới 190 tỉ đồng.

Trong báo cáo kinh doanh 9 tháng đầu năm 2012, một số công ty chuyên sản xuất gạch ốp lát thuộc họ Viglacera như Viglacera Tiên Sơn (VIT) và Viglacera Thăng Long (TLT) đều báo lỗ. Cụ thể, Viglacera Tiên Sơn công bố mức LNST âm 17,5 tỉ đồng còn Viglacera Thăng Long âm gần 32 tỉ.

Một ông lớn khác trong ngành gạch ốp là công ty CP công nghiệp Gốm sứ Taicera, năm ngoái công bố lãi hơn 80 tỉ thì 9 tháng đầu năm nay đã báo lỗ hơn 10 tỉ đồng.

Riêng với Prime, trong 6 tháng đầu năm 2012, Prime Group kinh doanh vẫn có lời, lợi nhuận tăng trưởng 8% so với cùng kỳ nhưng cũng chỉ ở mức 39,9 tỷ đồng. Trong khi đó, thị phần của Prime lại giảm từ 30% từ năm 2008 xuống còn 20%.




Việc các DN sản xuất gạch ốp lát cũng như các ngành vật liệu xây dựng khác làm ăn thua lỗ được xem là xu hướng tất yếu khi thị trường bất động sản đóng băng. Hiện tại, không ít các doanh nghiệp ngành này đang có dấu hiệu phá sản, dừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng do nhu cầu tiêu thụ của thị trường quá thấp.

Trong báo cáo tài chính quý 3, hầu hết các DN đếu có mức hàng tồn kho cao. 9 tháng của năm 2012, lượng hàng tồn kho của Taicera lên tới 427 tỉ đồng, gấp 1,5 lần mức tồn kho của năm 2011. Không chỉ giá trị tồn kho ngày càng lớn, tỉ lệ hàng tồn kho thành phẩm của nhiều DN gạch cũng ở mức 60 - 70%

Mức tồn kho của 1 số DN sau 9 tháng 2012 đã xấp xỉ 12 tháng 2011
Sự suy giảm lại làm tăng giá thành sản phẩm do chi phí khấu hao tăng. Nhưng áp lực chi phí đối với doanh nghiệp không chỉ có thế. Ngành sản xuất vật liệu xây dựng, nhất là những sản phẩm cơ bản như gạch ốp lát, sứ vệ sinh, gạch ngói... có đặc điểm chung là sử dụng nhiều năng lượng. Việc giá điện, xăng dầu và than tăng liên tục trong thời gian qua đã đẩy chi phí sản xuất tăng vọt. Thêm vào đó, lãi vay ngân hàng cao ngất ngưởng cùng sức ép từ thị trường gạch ốp lát số 1 thế giới – Trung Quốc đang đẩy nhiều công ty vào bước đường cùng.

Những con số “lỗ khủng” trong năm qua của các công ty sản xuất gạch ốp lát, lượng hàng tồn kho cao cùng dự báo một năm 2013 không mấy sáng sủa của thị trường bất động sản cho thấy nhu cầu gạch cho thị trường trong nước trong thời gian tới sẽ tiếp tục ở mức thấp. Việc nhà đầu tư bỏ cả đống tiền để thâu tóm một DN sản xuất gạch có thể coi là một bước đi mạo hiểm và đặt ra câu hỏi về hướng đầu tư trong thời gian tới, một mục tiêu dài hạn trong tương lai hay nhằm cung cấp cho một thị trường bên ngoài Việt Nam?

Trang Lam
Theo TTVN 

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2013

Posco, China Steel chi 540 triệu USD mua mỏ quặng

Hai công ty sản xuất thép Posco và China Steel sẽ đầu tư mỗi hãng 270 triệu USD vào mỏ quặng sắt Labrador Trough của Canada và mỗi công ty sẽ nhận được 3,68% cổ phần.

Ngoài ra, công ty quốc doanh National Pension Service của Hàn Quốc cũng đang cân nhắc tham gia đầu tư.



Posco - tập đoàn sản xuất thép đứng thứ tư trên thế giới về sản lượng của Hàn Quốc, đã tăng cường đầu tư vào Australia, Brazil, Canada và châu Phi nhằm nâng khả năng tự cung về vật liệu thô từ 34% hiện nay lên 50% vào năm 2014. Quặng sắt và than là những vật liệu thô chính để sản xuất thép, song Posco hầu như phải nhập khẩu quặng sắt từ bên ngoài.

Năm 2011, Posco và National Pension Service đã thành lập một quỹ 800 tỷ won (752 triệu USD) nhằm mở rộng hoạt động thâu tóm các mỏ quặng nước ngoài.

Còn China Steel - nhà sản xuất thép lớn nhất Đài Loan (Trung Quốc), đặt mục tiêu đến năm 2015 sẽ đảm bảo 30% nhu cầu quặng sắt và than từ các mỏ mà công ty đã đầu tư.

Kim Kyung-jung, nhà phân tích tại Eugene Securities, cho rằng thỏa thuận trên về lâu dài sẽ giúp Posco và China Steel mua vật liệu thô với mức giá rẻ hơn. Dự kiến, thỏa thuận này sẽ được hoàn tất trong nửa đầu năm 2013.

Giá quặng sắt đã sụt giảm xuống mức thấp nhất trong ba năm qua là 88 USD/tấn hồi tháng 9/2012 do tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chậm lại, song kể từ đó đến nay giá quặng sắt đã tăng tới 60%.

Ngay sau thông tin trên, giá cổ phiếu của Posco đã tăng 3,3% trong phiên giao dịch ngày 2/1, còn giá cổ phiếu của China Steel tăng 0,9%.

Theo Tố Uyên
Vietnam+ 

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2013

A&P giới thiệu sản phẩm vữa khô

Công ty CP hóa chất xây dựng A&P vừa giới thiệu sản phẩm vữa khô tại triển lãm công nghệ xây dựng Vietconstech 2012.

Tại triễn làm lần này Cty A&P giới thiệu đến quý khách hàng công nghệ thi công: mới - vượt trội - tiên tiến - ưu việt - phổ cập. Ngoài các sản phẩm vữa khô Mova đến với triễn lãm lần này A&P còn mang đến các sản phẩm Home beton A&P và dịch vụ xây dựng H&K.



Các sản phẩm của MOVA đa dạng về chủng loại: Keo dán gạch; Keo miết mạch; Bột bả trường; Vật liệu phủ sàn và Vữa khô các loại như vữa xây, vữa trát, vữa chống thấm, vữa trang trí và hoàn thiện…) thay thế hàng nhập ngoại.

Sản phẩm hóa chất xây dựng MOVA được sản xuất trên dây truyền thiết bị nhập ngoại hiện đại với công nghệ tiên tiến và các phụ gia Polyme đa chức năng được nhập từ các hãng cung cấp nguyên liệu của Đức và Thụy Sĩ nhằm cải thiện và tạo nên các tính năng vượt trội của các sản phẩm vữa khô MOVA mà các sản phẩm truyền thống không thể có như cường độ chịu uốn – nén cao, khả năng bám dính trên mọi chất nền rất tốt, tính chống co ngót, độ bền mầu sắc và đặ biệt về khả năng tự san bằng bề mặt sàn của vữa khô...

Ngoài ra, sản phẩm cao cấp MOVA còn mang lại rất nhiều tiện ích khác như chất lượng được đảm bảo tại nhà máy; đạt tiêu chuẩn Châu Âu ; sản phẩm trộn sẵn dễ sử dụng, giảm thiểu lượng tiêu hao vật tư; rút ngắn thời gian thi công, giá cả hợp lý và đặc biệt rất thân thiện với môi trường.

TH 

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2013

Chống ngập úng nội đô: Góc nhìn của nhà xây dựng

Theo số liệu thống kê, hiện nay tổng lượng mưa cả năm tại Hà Nội trung bình là 1.676mm, cao hơn trung bình của các thập kỷ trước. Vì vậy, trong tương lai gần nỗi lo ngập lụt của người dân là không thừa. Cùng với giải pháp thoát nước, việc ứng dụng vữa hiện đại thay thế vữa truyền thống cho “đại công trình xây dựng thủ đô” nhằm hạn chế phế thải xem ra không thể chậm trễ.

Người Hà Nội chắc không thể quên được “trận lụt lịch sử” năm 2008, khi bị “bao vây” bởi nước ngập và cái đói giữa lòng thủ đô. Từ đó đến nay, tình trạng ngập lụt mỗi khi mưa to trong thành phố gần như chưa được cải thiện. Giải thích cho hiện tượng này, các nhà chuyên môn cho biết, nguyên nhân lớn nhất vẫn là do hạ tầng cơ sở kém, hệ thống thoát tiêu nước chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế đặt ra. Nước mưa không tiêu kịp gây ngập úng trên đường phố.

Tuy nhiên trên thực tế, vẫn tồn tại một nguyên nhân chủ quan quan trọng mà bao lâu nay chúng ta đã “nhắm mắt làm ngơ”. Đó là việc cát xây dựng làm tắc cống thoát nước. Thông thường, vào ban đêm, rất nhiều xe tải chở vật liệu xây dựng đi vào trong thành phố làm rơi vãi cát, sỏi… ra đường (có những đoạn đường sáng ra bỗng trồi hẳn lên vài… đống cát nhỏ). Mỗi khi mưa xuống, lượng cát bụi trên đường bị rửa trôi xuống… cống thoát nước. Hiện tượng này cũng xẩy ra ở các công trường xây dựng. Ông Võ Tiến Hùng, Phó TGĐ Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thoát nước Hà Nội cho biết: “Tại nhiều công trường xây dựng, trong quá trình thi công, đất phế thải tồn, lưu trong lòng cống làm ách tắc dòng chảy, không có tác dụng thoát nước”. Khiến cho khi mưa to hoặc mưa lâu, nước trong cống sẽ không thoát kịp, gây ra ngập úng. Số lượng các công trường xây dựng đang thi công tỉ lệ thuận với số lượng “điểm đen” ngập úng trên địa bàn thủ đô.


Cảnh ngập lụt trên phố Hà Nội. Ảnh: Internet

Chính vì thế, bên cạnh việc hoàn thiện từng bước hệ thống thoát nước mưa khu vực đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh, các nhà chức trách còn nên chú ý tới việc giải quyết ngay từ gốc rễ vấn đề. “Chúng ta không thể cấm các xe chở vật liệu xây dựng đi vào khu vực nội đô, cũng như không thể ngừng các hoạt động xây dựng đơn lẻ hay giảm tốc độ xây dựng các công trình trọng điểm trong nội đô. Nhưng, thay vì sử dụng các loại vữa truyền thống, chúng ta có thể dùng những loại vật liệu mới, sạch tạp hại, không bụi như vữa khô Polyme Mova chẳng hạn.


Nhờ khắc phục được tình trạng rơi vãi vật liệu xây dựng nên vữa khô Polyme Mova góp phần hạn chế ngập úng

Vữa khô Polyme Mova được sản xuất trên dây chuyền tự động, khép kín, không phế thải theo công nghệ của CHLB Đức. Cát đã được sấy khô và sàng sạch trước khi đưa vào sản xuất, kết hợp với các loại phụ gia polyme… nên hoàn toàn không có tạp chất. Vữa khô Polyme Mova lại được đóng bao sẵn nên có thể tránh được tình trạng rơi vãi vật liệu xây dựng trên đường trong quá trình vận chuyển hoặc ùn tắc phế thải tại các công trường xây dựng. Nhờ đó, có thể giảm được một lượng khá lớn đất cát rơi xuống cống thoát nước làm ách tắc dòng chảy gây úng ngập”.

Mấy tháng gần đây, Hà Nội đã phải chịu 3 trận ngập úng lớn với 28 “điểm đen” trên bản đồ ngập lụt của thành phố. Ngập úng thường gây ra tắc đường, giao thông hỗn loạn thậm chí dễ xảy ra nhiều tai nạn do người tham gia giao thông không nhìn thấy những ổ gà, ổ voi hay những cửa cống, những hố sâu trên mặt đường, gây nguy hiểm tới tính mạng người dân. Vì vậy, các cơ quan, đoàn thể, các chủ đầu tư cần cân nhắc việc sử dụng vật liệu xây dựng hợp lý để góp phần cải thiện tình trạng ngập úng trên địa bàn thủ đô trong mùa mưa bão.

Hiền Minh

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

Ngành công nghiệp và bài toán hàng tồn kho

Mặc dù chỉ số sản xuất công nghiệp cả năm 2012 tăng, nhưng bài toán khó giải nhất hiện nay vẫn là tình trạng tồn kho lớn.

Sản xuất công nghiệp và xây dựng góp phần đặc biệt quan trọng trong tăng trưởng GDP. Trong 5,03% tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế năm 2012, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%, đóng góp 1,89 điểm phần trăm.

Mặc dù chỉ số sản xuất công nghiệp cả năm 2012 tăng 4,8% so với năm 2011, tuy nhiên, nhìn lại tình hình sản xuất công nghiệp năm 2012 cho thấy, vẫn còn đó những khó khăn tồn tại khách quan, và bài toán khó giải nhất của nền kinh tế hiện nay vẫn là tình trạng tồn kho lớn.

Công nghiệp cơ bản tăng trưởng chậm

Trong lĩnh vực năng lượng, ngoại trừ ngành dầu khí vẫn đạt mức tăng trưởng cao so với năm 2011. Lĩnh vực điện năng năm 2012 nhìn chung có tăng trưởng nhưng thấp (việc đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế và đời sống, phần lớn vẫn do nhu cầu tiêu dùng giảm, sản xuất đình trệ, ít gia tăng nhà máy sản xuất mới với nhu cầu điện lớn...).




Lượng thép tồn kho giảm chưa đáng kể trong năm 2012.



Ngành than đã thể hiện đầy đủ những khó khăn, cả tiêu thụ trong nước lẫn xuất khẩu. Trong năm 2012, ngành than đã có hai lần điều chỉnh kế hoạch giảm sản lượng khai thác do các hộ tiêu dùng trong nước giảm mua, và dù được Chính phủ cho phép giảm thuế từ tháng 9/2012 (từ 20% xuống còn 10%) - tuy đã gia tăng đáng kể lượng than xuất khẩu nhưng lượng tồn kho vẫn khá cao.

Đối với lĩnh vực công nghiệp nặng, theo Báo cáo của Bộ Công thương về hoạt động sản xuất công nghiệp 11 tháng của năm 2012 cho thấy, một số lĩnh vực trong khối công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng tương đối cao như: Sản xuất phân bón, hóa chất (tăng 10,250; chế biến sữa và các sản phẩm từ sữa (tăng 11,2%); sản xuất linh kiện điện tử (tăng 18,3%); sản xuất phụ tùng và bộ phận phụ trợ cho xe có động cơ và động cơ xe (tăng 37%); đóng tàu và cấu kiện nổi tăng hơn 2,4 lần...

Tuy nhiên, khó khăn vẫn luôn tiềm ẩn, nhất là lượng tồn kho cao ở các ngành công nghiệp thuộc lĩnh vực cơ kim khí, mà thép là một trong những ví dụ nổi bật. Mặc dù lượng tiêu thụ của thị trường có cải thiện hơn, song lượng thép tồn kho giảm chưa đáng kể trong khi thép nhập khẩu từ nước ngoài vẫn tiếp tục tăng, nhất là thép nhập khẩu từ Trung Quốc.

Phó chủ tịch Hiệp hội thép Việt Nam - ông Nguyễn Tiến Nghi cho rằng, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu việc xây dựng hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu những loại thép doanh nghiệp trong nước đã bảo đảm được cả chất lượng và số lượng.

Ngay cả lĩnh vực đóng tàu và cấu kiện nổi được cho là có mức tăng trưởng khá thì Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) ông Nguyễn Ngọc Sự cho biết, do khó khăn về tài chính, về thị trường nên Vinashin không thể hoàn thành kế hoạch, hiện chỉ cố gắng duy trì các hoạt động nhằm bảo đảm điều kiện sống tối thiểu cho cán bộ, công nhân viên.

Cơ khí, điện tử, ô tô ế ẩm mùa lễ, Tết

Khác với mọi năm, thị trường điện tử không tăng trưởng vào mùa bán hàng truyền thống chuẩn bị cho Tết Nguyên đán. Các nhà phân phối ra sức kích cầu bằng nhiều chương trình khuyến mãi, hạ giá, hỗ trợ các thủ tục... để giải phóng hàng tồn kho nhằm thu hồi vốn nhưng lượng tiêu thụ vẫn rất chậm.

Các doanh nghiệp trong ngành sản xuất lắp ráp ô tô cũng hết sức khó khăn, lợi nhuận thấp, thậm chí thua lỗ lớn. Khó khăn này đã gián tiếp ảnh hưởng tới nhiều doanh nghiệp khác trong ngành như cung cấp linh kiện điện tử bị giảm đơn hàng, người lao động thu nhập thấp đi, thậm chí bị buộc nghỉ việc. Một số số liệu (tính đến đầu tháng 12/2012) cho thấy, ngành sản xuất ô tô giảm 12,3%, điều hòa nhiệt độ giảm 9,9%, biến thế điện giảm 25,6%...

Tuy nhiên, do đơn đặt hàng từ cuối năm trước (trả nợ đơn hàng) nên một số sản phẩm vẫn tăng trưởng mạnh, kim ngạch xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 67,1%, điện thoại các loại và linh kiện tăng gấp 2 lần, máy ảnh, máy quay phim và linh kiện tăng 2,6 lần… là điều kiện để đưa Việt Nam trở thành nước xuất siêu trong năm 2012.

Công nghiệp nhẹ tiến chậm nhưng ổn định

Sự phát triển của một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giấy, da giầy và một số ngành hàng khác tuy có chậm hơn so với mọi năm, nhưng hứa hẹn tạo đà vững chắc cho các năm tiếp theo.

Ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, xơ sợi trong năm 2012 đạt 17 tỷ USD, tăng 8% so với năm trước và chiếm khoảng 16% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Mặc dù mức tăng này chưa đạt mục tiêu kế hoạch đề ra, song đây là kết quả đáng khích lệ trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, các thị trường xuất khẩu chính của ngành dệt may Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản... đều giảm nhập khẩu do người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu.

Ông Lê Tiến Trường - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cho biết, năm 2012, do giá trung bình hàng dệt may trên thị trường thế giới giảm nên để đạt tốc độ tăng trưởng về kim ngạch, sản lượng xuất khẩu phải tăng 14-15% tùy thị trường.

“Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Mỹ tăng 5% thì hàng dệt may của Việt Nam tăng 15%; thị trường châu Âu giảm 5% thì hàng dệt may của Việt Nam chịu mức giảm 2-3%; xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tăng trưởng được khoảng 17%; với thị trường Hàn Quốc, hàng dệt may đạt mức tăng 28% trong khi thực tế thị trường này chỉ tăng nhập khẩu khoảng 7%” - Ông Lê Tiến Trường cho hay.

Sở dĩ đạt được kết quả tương đối khả quan như vậy là do ngành dệt may đã có chiến lược cạnh tranh dài hạn đúng đắn, luôn lựa chọn mặt hàng có kỹ thuật cao, linh hoạt trong các đơn hàng vừa và nhỏ, xác định thị trường ngách để đi. Mặc dù vậy, khó khăn từ thị trường thế giới đã khiến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của toàn ngành dệt may chững lại và chỉ đạt ở mức một con số, chưa đạt so với kế hoạch tăng 10 - 12% đặt ra hồi đầu năm 2012 và thấp xa so với mức hơn 30% của năm 2011.

Bà Đặng Phương Dung, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS) cho biết, chưa có thống kê cụ thể về số doanh nghiệp có đơn hàng trong những tháng đầu năm tới, tuy nhiên, phản ảnh của các doanh nghiệp dệt may cho thấy tình hình đơn hàng trong năm 2013 khả quan hơn so với năm 2012, xét về số lượng đơn hàng.

Một lĩnh vực khác của ngành công nghiệp nhẹ là ngành da giầy cũng có mức tăng trưởng nhất định, tồn kho ít và kim ngạch xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng. Tuy nhiên, so với năm 2011 thì lượng đơn hàng của nhiều doanh nghiệp trong ngành đã sụt giảm khoảng 25-30% từ các thị trường nhập khẩu chính, đặc biệt là EU.

Đến thời điểm này, tình hình đơn hàng dệt may, da giày xuất khẩu cho những tháng đầu năm 2013 tương đối ổn định hơn so với năm 2012, nhưng cũng có trường hợp khách hàng chưa quyết định khối lượng và giá cả.

Theo tính toán, có thể trong năm 2013 này các doanh nghiệp dệt may, da giày vẫn khó có lợi nhuận cao khi tình hình thị trường vẫn còn nhiều khó khăn, các chi phí đầu vào tiếp tục tăng do việc tăng lương tối thiểu, tăng giá điện… nhưng doanh nghiệp khó thương lượng được giá cao với khách hàng.

Trong cái khó ló cái khôn

Trong khi sản xuất và tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, không ít doanh nghiệp đã tranh thủ cơ hội mở rộng nhà xưởng, tận dụng từ nguồn hàng sắt thép, xi măng dồi dào, có giá thấp… đến đầu tư dây chuyền công nghệ hiện đại, có giá phải chăng.

Bà Ninh Thị Ty - Chủ tịch HĐQT Công ty May Hồ Gươm, kiêm Chủ tịch HĐQT, TGĐ Công ty May Chiến Thắng cho biết, mỗi năm công ty vẫn mở thêm một nhà máy mới.

“Trong xu thế chung thì bao giờ cũng có những người sẽ vươn lên, có sự cạnh tranh là bình thường. Đối với chúng tôi, trong những lúc khó khăn chúng tôi lại tranh thủ tạo cơ hội cho mình. Năm 2012 chúng tôi đã đầu tư thêm được dây chuyền nhà máy làm comple và chúng tôi đang tiến hành mở LC để nhập máy về, và ngay sau Tết Nguyên đán Quý Tỵ, chúng tôi sẽ khai trương nhà máy mới này” - Bà Ninh Thị Ty chia sẻ.

Ông Nguyễn Minh Chuẩn - TGĐ Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) cho biết, mũi nhọn trong công tác điều hành sản xuất năm 2013 là chỉ đạo các đơn vị nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị trường tiêu thụ than và tìm nhiều giải pháp tiết giảm chi phí để hạ giá thành sản phẩm.

Bài toán khó giải nhất của nền kinh tế hiện nay là tình trạng tồn kho lớn. Chỉ số tồn kho tính đến ngày 1/12 năm nay của ngành công nghiệp chế biến tăng 20,1% so với cùng thời điểm năm trước. Bộ Công thương đã đưa ra giải pháp ký cam kết sử dụng, tiêu dùng hàng nội bộ của các doanh nghiệp trong ngành công thương, đồng thời với tăng cường cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”… để đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho, tạo đà cho năm 2013.

Nhìn lại hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2012 của các ngành kinh tế, nhiều chuyên gia cho rằng, việc không đạt chỉ tiêu kế hoạch của từng ngành có vấn đề ngay từ công tác dự báo và lập kế hoạch, cũng như thiếu sự phối hợp trong các ngành và mỗi tập đoàn, doanh nghiệp.

Việc lên kế hoạch năm sau luôn phải cao hơn năm trước của từng lĩnh vực sản xuất, trong khi dự báo tăng trưởng kinh tế thấp hơn, sức tiêu thụ giảm hơn - là nguyên nhân cơ bản của tồn kho cần phải được khắc phục ngay từ khâu đầu.

Đây cũng là những lưu ý quan trọng cho các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, phải bứt phá phát triển để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 5,5% trong năm 2013 khi điều kiện được dự báo còn rất nhiều khó khăn./.

Nguồn tin: VOV

Làm gì để kích thích sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng?

8 tháng đầu năm 2012, tình hình sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng (VLXD) gặp nhiều khó khăn, lượng hàng tồn kho cao.

Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, cá biệt có mặt hàng tồn kho tới trên 50% đã khiến cho nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này rơi vào tình cảnh “sống dở, chết dở”...

Khó khăn chung của ngành VLXD

Theo báo cáo của các đơn vị sản xuất kinh doanh VLXD, năm 2011, đặc biệt là 8 tháng đầu năm 2012, ngành sản xuất VLXD gặp rất nhiều khó khăn: giá cả nguyên, nhiên liệu đầu vào tăng; chi phí vốn cao; tiêu thụ sản phẩm chậm; lượng tồn kho tăng; nhiều nhà máy, nhiều dây chuyền phải dừng hoạt động hoặc sản xuất cầm chừng; trong đó khó khăn nhất là các lĩnh vực sản xuất gạch ốp lát và sứ vệ sinh, kính xây dựng. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên là do nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn như lạm phát cao, cắt giảm đầu tư công, tín dụng thắt chặt, sức mua giảm, thị trường bất động sản trầm lắng...



Một thực tế ai cũng nhìn ra là sản xuất và tiêu thụ đều giảm, lượng hàng tồn kho tăng cao... là những khó khăn đang cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp ngành nghề vật liệu xây dựng. Nếu không kịp có các giải pháp trợ giúp, số lượng doanh nghiệp phá sản sẽ không ngừng tăng trong thời gian tới.

Nhiều doanh nghiệp sản xuất VLXD hoạt động cầm chừng, không phát huy hết công suất, sản lượng sản xuất và tiêu thụ đạt thấp, lượng hàng tồn kho lớn và kinh doanh không hiệu quả. Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam, tính đến hết tháng 6/2012, xi măng tồn kho gần 3 triệu tấn.

Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 và có Chỉ thị 10/CT-TTg về tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung, đồng thời hạn chế sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh..., nhưng đến nay, thị trường đầu ra cho các loại sản phẩm gạch bê tông khí chưng áp còn rất hạn chế.

Trên cả nước hiện có 9 nhà máy sản xuất bê tông khí chưng áp với công suất 1,5 triệu m2/năm. Từ đầu năm 2012 đến nay, chỉ có 2 nhà máy duy trì sản xuất một cách cầm chừng, 7 nhà máy còn lại phải dừng sản xuất vì không có thị trường tiêu thụ. Lượng hàng tồn kho hiện trên 1 tỷ viên gạch quy chuẩn.

Điểm qua tình hình hoạt động của một số tập đoàn, tổng công ty Nhà nước thuộc quản lý của Bộ Xây dựng cũng thấy, do lượng hàng tồn kho quá lớn, nhiều đơn vị đã phải giảm công suất khai thác để tránh thua lỗ thêm. Nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Nhà máy cán thép sông Hồng và một số nhà máy thuộc Tập đoàn sông Đà đã phải dừng từ 1 đến 2 dây chuyền khai thác; Nhà máy gạch ốp lát Hà Nội, Nhà máy granite Tiên Sơn, Nhà máy gạch men Thăng Long, Nhà máy sứ Bình Dương, Thanh Trì, Việt Trì... đã phải dừng sản xuất toàn bộ từ 1,5 đến 3 tháng để tập trung tiêu thụ hàng tồn; Nhà máy kính Đáp Cầu cũng phải dừng dây chuyền sản xuất 8 triệu m2 kính xây dựng/năm.

Như vậy, việc ngừng hoạt động hoặc giảm công suất khai thác do tồn kho lớn còn ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng thanh toán nợ đối với các tổ chức tín dụng, gia tăng tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn của các doanh nghiệp VLXD. Vì thế trong năm 2012, lãnh đạo Bộ Xây dựng cho biết, về cơ bản không triển khai đầu tư mới, kể cả những dự án được coi là rất cần thiết như sản xuất kính tiết kiệm năng lượng, vật liệu xây không nung... Các dự án xi măng như Mỹ Đức, Hà Tiên 2-2 đều phải giãn tiến độ đầu tư.

Kích cầu và hỗ trợ sản xuất

Để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất VLXD, các hội, hiệp hội và các doanh nghiệp đã kiến nghị Chính phủ, Bộ Xây dựng có giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường bất động sản, vì thị trường bất động sản là đầu ra của các ngành sản xuất VLXD, xúc tiến các dự án làm đường bê tông xi măng, có chính sách khuyến khích cũng như bắt buộc sử dụng vật liệu xây không nung, kính an toàn trong các tòa nhà cao tầng, sử dụng VLXD sản xuất trong nước đối với các dự án đầu tư xây dựng công trình bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc nguồn vốn có nguồn gốc ngân sách nhà nước, sử dụng các công cụ thuế để hạn chế nhập các sản phẩm VLXD trong nước đã sản xuất được, giảm thuế VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp sản xuất VLXD...

Thực tế, trong thời gian khó khăn qua, bản thân các hội, hiệp hội ngành hàng VLXD đã chủ động, tích cực trong việc giúp cho ngành sản xuất VLXD ứng phó kịp thời, giảm thiểu tác động của suy giảm kinh tế.

Cùng với nỗ lực của Chính phủ, Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành Trung ương đã và đang có những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, trong đó có những chính sách quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát, hạ lãi suất cho vay, đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công, bước đầu đã tháo gỡ các khó khăn cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng cần hết sức chủ động tái cấu trúc, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, khắc phục các khó khăn; tiết giảm chi phí để hạ giá thành sản phẩm; tăng cường quảng bá, tiếp thị và vận dụng các lợi thế cạnh tranh để mở rộng thị trường; cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm để hướng tới xuất khẩu.

Theo Đảng Cộng sản Việt Nam

Thứ Năm, 27 tháng 12, 2012

Sức mua càng “kích” càng yếu - Kỳ 4: Giảm tồn kho vẫn bế tắc

Trong nỗ lực giảm tồn kho của mình, các doanh nghiệp sat thep, thep hop, thep vuong, ong thep gặp không ít khó khăn cả ở thị trường nội địa và xuất khẩu. Họ đang trông chờ vào sự hỗ trợ của cơ quan quản lý trong khi các bộ, ngành lại cho rằng DN phải tự thân là chính.


Ngành thép đang có lượng tồn kho cao và phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh
xấu từ hàng nhập khẩu - Ảnh: Diệp Đức Minh


Giảm giá, khuyến mãi mất "linh"

Sức mua trong nước yếu, nhiều mặt hàng còn phải lo đối phó với sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu khiến lượng tồn kho ngày càng tăng. Cụ thể như trường hợp của ngành thép. Sản lượng thép các loại 11 tháng ước đạt 5,55 triệu tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ. Hiện sức mua yếu, lượng thép tồn kho giảm nhưng không đáng kể trong khi đó lượng thép nhập khẩu tăng 15,6%, đặc biệt là thép Trung Quốc. Theo ông Nguyễn Tiến Nghi, Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), các doanh nghiệp (DN) trong ngành đã và đang cố gắng để giảm tồn kho bằng hàng loạt biện pháp như: đẩy mạnh xuất khẩu, tăng khả năng quản trị để giảm chi phí sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh... nhưng cũng không ổn.

Ở ngành cơ khí, điện tử, các nhà phân phối ra sức kích cầu bằng nhiều chương trình khuyến mãi hạ giá, hỗ trợ các thủ tục... để giải phóng hàng tồn kho, thu hồi vốn. Nhưng các DN trong ngành, nhất là ngành sản xuất lắp ráp ô tô, vẫn hết sức khó khăn, lợi nhuận thấp và thậm chí thua lỗ lớn. Đây cũng là tình trạng của các ngành vật liệu xây dựng, thời trang, tiêu dùng, thực phẩm...

Có thể thấy rất rõ, giải pháp của hầu hết DN trong nỗ lực giảm tồn kho là khuyến mãi, giảm giá, tặng dịch vụ... nhưng các giải pháp này trên thực tế đã "mất linh". Với mặt bằng giá đã bị đẩy lên cao, chi phí tăng, thu nhập thực tế giảm, hầu hết người dân đều có tâm lý thắt lưng buộc bụng, chỉ chi tiêu cho những việc thiết yếu nên các giải pháp trên không phát huy tác dụng như mong muốn.

Cần có chính sách

Ông Lê Dương Quang, Thứ trưởng Bộ Công thương, thừa nhận mọi năm vào thời điểm này sức mua rất cao nhưng năm nay vẫn còn rất yếu. Bộ sẽ tiếp tục đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại, giảm giá, đưa hàng đến tận tay người tiêu dùng, đưa hàng về nông thôn, vùng sâu vùng xa... nhưng sẽ cần phải thêm một thời gian nữa. Hiện Bộ Công thương cũng đang phát động chương trình cho các tập đoàn, tổng công ty trực thuộc Bộ ưu tiên dùng hàng của nhau; đẩy mạnh việc thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, tăng cường xúc tiến thương mại trong và ngoài nước... Nhiều địa phương cũng bắt đầu thực hiện kế hoạch ứng vốn hỗ trợ lãi suất cho các DN dự trữ hàng hóa bình ổn thị trường trong dịp Tết Nguyên đán. Nhiều chương trình khuyến mãi lớn được các DN và các siêu thị triển khai để chuẩn bị cho nhu cầu mua sắm tết. Song, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ tháng 11 chỉ nhích lên một chút với mức tăng 0,8% so với tháng 10 và tăng 11% so với cùng kỳ năm ngoái. Nếu loại bỏ yếu tố tăng giá thì tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ chỉ tăng 6,39%.

TS Nguyễn Đình Cung, Phó viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), cho rằng cần phân loại hàng tồn kho, từ đó phân tích nguyên nhân của từng trường hợp cụ thể mới có thể tìm ra giải pháp phù hợp. Chủ yếu vẫn là nỗ lực tự thân của các DN. Một trong những giải pháp mà có thể có hiệu quả tốt là DN phải giảm giá bán để tăng sức mua.

Trong khi đó, hầu hết DN lại cho rằng dù nỗ lực tự thân của họ là quan trọng nhưng nếu không có cơ chế chính sách kích cầu, tăng sức mua thì khó lòng thực hiện giảm tồn kho được. Cụ thể như ngành thép, ông Nguyễn Tiến Nghi cho rằng về phần DN, họ đã cố gắng hết sức, nhưng có những cái thuộc về cơ chế chính sách thì nhà nước phải hỗ trợ DN. Bởi giảm hàng tồn của ngành thép phụ thuộc vào thị trường bất động sản, đầu tư công... Vì vậy, đối với đầu tư công, công trình nào đã đồng ý cấp phép thì nên cấp vốn cho xây dựng để tạo đầu ra.

Bên cạnh đó, cơ quan chức năng phải kiểm soát hàng nhập lậu, tránh để hàng ngoại giá rẻ “đè” chết hàng nội, nhất là trong bối cảnh lực cầu ở thị trường nội địa yếu như hiện nay.

Nguồn tin: Thanh Niên

Công nghiệp xi măng: Đầu tư để... cho vào kho

Trong khi số liệu của Bộ Công thương cho thấy, lượng tồn kho của ngành xi măng trong 10 tháng đầu năm tăng 51,3% (xấp xỉ 4 triệu tấn), thì vẫn tiếp tục có hàng chục ngàn tỷ đồng được bỏ ra để làm tăng thêm lượng xi măng tồn kho.

Đặc biệt, năm 2013 sẽ có thêm 2 dự án mới, với tổng công suất trên 2,7 triệu tấn gia nhập thị trường.


Xuất khẩu clinker, xi măng là công việc mới và rất khó khăn đối với doanh nghiệp xi măng.

Do khó khăn của nền kinh tế nói chung, cầu giảm, dẫn đến vật liệu xây dựng, trong đó có xi măng tiêu thụ khó, nên một loạt doanh nghiệp (DN) xi măng đã gánh chịu những khó khăn. Quản trị DN của một bộ phận nhà đầu tư xi măng còn hạn chế cũng là một nguyên nhân dẫn đến khó khăn của các DN. Chưa kể, các dự án mới đi vào sản xuất, nên lỗ kế hoạch là không tránh khỏi.

Bộ Xây dựng đang hoàn thiện đề án tái cơ cấu ngành. Theo đó, đối với xi măng, sẽ hướng đến phân loại các DN xi măng để có các giải pháp phù hợp. Như có thể chuyển giao vốn, hoặc chuyển giao nguyên trạng DN xi măng cho các DN khác, chẳng hạn chuyển giao DN làm ăn thua lỗ cho các DN đang có lợi thế như Vicem.

Giải pháp nữa là, thoái vốn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, bán vốn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước có thế mạnh về tài chính và kinh nghiệm sản xuất xi măng. Hiện nay, các DN như Đồng Bành, Hạ Long đang tập trung đi theo hướng như vậy hoặc giao cho DN khác. Đồng thời, cần có lộ trình tăng vốn điều lệ, huy động thêm các nguồn vốn ngoài xã hội.

Để làm được như vậy, Bộ Xây dựng đề nghị các tổ chức tín dụng trong nước cho khoanh nợ, giãn nợ và cho DN vay vốn, đề nghị bổ sung quy định về chuyển nhượng vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là bổ sung quy định về chuyển nhượng vốn nhà nước theo giá thị trường trong trường hợp giá chuyển nhượng thấp hơn mệnh giá để cắt lỗ.

Còn theo thống kê của Bộ Xây dựng, tồn kho xi măng tính đến cuối tháng 10/2012 là 2,6 triệu tấn.

Ùn ùn đổ vốn... góp tồn kho

Thực tế, ngay từ đầu năm 2010, Bộ Xây dựng đã nhìn thấy nguy cơ thừa xi măng và có công văn gửi các địa phương ngừng cấp phép các dự án mới. Tuy nhiên, từ trước đó, những nhà đầu tư có chủ trương xây dựng nhà máy sản xuất xi măng đã có trong tay giấy chứng nhận đầu tư.

Đầu tháng 10 vừa qua, Công ty cổ phần Xi măng Fico (Tây Ninh) đã tiến hành thăm dò địa chất tại khu vực rừng phòng hộ Dầu Tiếng, tiến tới xây dựng dây chuyền 2, công suất 1,5 triệu tấn/năm. Còn tại Ninh Bình, Tập đoàn Xi măng Lucky (100% vốn Đài Loan) đang hoàn thiện dây chuyền 1 công suất 1,8 triệu tấn, nhưng đã có trong tay giấy chứng nhận đầu tư dây chuyền 2 với công suất 1,8 triệu tấn.

Ngoài ra, năm 2013, theo Bộ Xây dựng, năm 2013, Xi măng Trung Sơn công suất 0,91 triệu tấn sẽ đi vào hoạt động trong quý I và nhiều khả năng có thêm cả Xi măng Quảng Phúc, công suất 1,8 triệu tấn đi vào hoạt động. Với suất đầu tư thông thường trong lĩnh vực này là khoảng 130 USD/tấn, thì các doanh nghiệp sẽ cùng nhau góp thêm khoảng 350 triệu USD vào để... tăng thêm lượng xi măng tồn kho!

Không những thế, theo thông tin mới nhất, nếu được khai thông trong đàm phán vay vốn, dự án Nhà máy Xi măng Thanh Sơn tại Thanh Hóa (do Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại Thăng Long làm chủ đầu tư) có tổng mức đầu tư 1.400 tỷ đồng, được khởi công từ tháng 3/2008, sẽ hoàn thành trong quý IV/2014.

Với ngần ấy vốn đầu tư, cơ quan nào có thể kiểm soát được rằng, các chủ đầu tư đã vay bao nhiêu và với những biến động trên thị trường xây dựng, trượt giá sẽ khiến họ phải vay thêm bao nhiêu nữa? Cần phải nhắc lại rằng, năm 2011, Bộ Tài chính đã phải đứng ra trả nợ thay đối với các khoản vay Chính phủ bảo lãnh từ các tổ chức tín dụng quốc tế đối với 4 dự án xi măng gồm: Hoàng Mai, Tam Điệp, Đồng Bành và Thái Nguyên, do nợ đã đến kỳ mà doanh nghiệp không có khả năng trả nợ.

Xuất khẩu xi măng: Không dễ!

Do nguồn cung trong nước đã quá lớn, các doanh nghiệp xi măng từ chỗ chỉ tập trung phát triển thị trường nội địa, đã phải hướng đến xuất khẩu. Xuất khẩu cũng là giải pháp được nhắc đến như một lối thoát cho các dự án xi măng.

Năm 2011 là năm đầu tiên ngành xi măng xuất khẩu được 6 triệu tấn xi măng, clinker, đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Hết 10 tháng đầu năm 2012, xuất khẩu xi măng, clinker đã đạt gần 6,9 triệu tấn.

Tuy nhiên, xuất khẩu clinker, xi măng là công việc mới mẻ và rất khó khăn đối với doanh nghiệp xi măng, do cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới rất gay gắt, các điều kiện logistics của Việt Nam còn yếu kém (phần lớn các nhà máy xi măng đều ở sâu trong nội địa, thiếu cảng nước sâu), nên chi phí vận chuyển đã làm giảm đi rất nhiều lợi thế cạnh tranh của sản phẩm.

Hơn nữa, theo báo giá của các nhà xuất khẩu, giá xuất khẩu clinker, xi măng của Việt Nam đang ở mức thấp, chỉ 36 USD/tấn clinker. Các tính toán cho thấy, hiện nay, suất đầu tư trung bình cho một tấn xi măng theo phương pháp khô (quy mô nhà máy cỡ 1,5 triệu tấn/năm, có công nghệ và thiết bị hiện đại), ở mức từ 125-135 USD/tấn. Nếu chia suất đầu tư theo các nguồn vốn vay để đầu tư thì chi phí đầu tư ở mức từ 25-28 USD/tấn. Còn chi phí sản xuất hiện ở mức từ 30-32 USD/tấn.

Như vậy, giá bán xi măng của Việt Nam phải từ 55-60 USD/tấn mới bảo đảm cho ngành xi măng phát triển bền vững. Trong khi đó, với giá xuất khẩu hiện nay của các doanh nghiệp xi măng, khẳng định của ông Nguyễn Văn Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Xi măng Việt Nam, “xuất khẩu clinker với ở mức giá này là chưa đủ bù chi” là hoàn toàn có lý.

Còn theo ông Ngô Đức Lưu, Phó giám đốc Công ty cổ phần Vicem Bút Sơn (Ninh Bình), ngoài những doanh nghiệp thành viên của Vicem đang thực hiện xuất khẩu theo đầu mối từ Vicem, có sự thống nhất chung về giá, thì rất khó kêu gọi các đơn vị ngoài Vicem cùng hợp tác, chia sẻ để đẩy mạnh tiêu thụ xi măng cả ở trong nước lẫn xuất khẩu. “Hầu hết đều chưa gạt bỏ hết lợi ích cục bộ ngắn hạn để cùng hướng đến lợi ích chung lâu dài”, ông Lưu giải thích về hiện tượng các doanh nghiệp trong ngành đua nhau hạ giá xuất khẩu để giành khách hàng.

Với thực tế trên, xuất khẩu xi măng chỉ là lối thoát kỳ vọng đối với nhiều dự án xi măng. Hết 3 quý đầu năm 2012, Xi măng Vicem Hoàng Mai có số tài sản nằm ở hàng tồn kho trị giá trên 394 tỷ đồng, bao gồm cả nguyên vật liệu, thành phẩm, chi phí kinh doanh dở dang.

Dù đã rất nỗ lực, nhưng lượng xuất khẩu của Vicem Hà Tiên thời gian vừa qua chẳng đáng để kể ra. “Ông lớn” của Tổng công ty Công nghiệp xi măng (Vicem) này cũng đang bị nghi ngờ về khả năng thanh toán nợ. Lợi nhuận sau thuế của HT1 liên tục sụt giảm từ mức 160 tỷ đồng năm 2009, xuống còn 60 tỷ đồng năm 2010 và đến năm 2011 lỗ gần 9 tỷ đồng, năm 2012 dự kiến lãi 9 tỷ đồng. Trong khi đó, tính đến thời điểm 31/6/2012, Vicem Hà Tiên là đơn vị có dư nợ lớn nhất trong số các công ty xi măng niêm yết với 11.105 tỷ đồng.

Không những thế, từ cuối năm 2011 đến nay, ngành xi măng đã chứng kiến một loạt dự án dừng sản xuất hoặc giảm công suất để tránh thua lỗ thêm. Xi măng Thanh Liêm (Hà Nam) phải dừng sản xuất vì không còn vốn hoạt động, nợ lương công nhân. Xi măng Đồng Bành dừng hoạt động từ tháng 3/2012. Xi măng Hoàng Thạch với 3 dây chuyền có thời điểm đã phải tạm dừng khai thác dây chuyền.

Cung tăng nhiều mà cầu chưa tăng”

Ông Lương Quang Khải, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Công nghiệp Xi măng Việt Nam

Việc một số nhà máy xi măng mới tiếp tục đi vào hoạt động càng làm cho thị trường cạnh tranh gay gắt, tồn kho có chiều hướng tăng lên, bởi cung tăng nhiều mà cầu chưa tăng mấy. Chưa kể, trong khi chi phí đầu vào tăng mạnh (chỉ tính riêng từ năm 2011 đến nay, mặt hàng than đã tăng giá tới 170%, điện tăng 19%, dầu 40%...), giá bán không tăng được đã ảnh hưởng lớn đến doanh thu và lợi nhuận của các dự án xi măng.

Một số nhà máy sẵn sàng phá giá”

Ông Đào Ngọc Bình, Tổng giám đốc Công ty TNHH một thành viên Xi măng Vicem Hoàng Thạch,

Chưa năm nào, tiêu thụ xi măng khó khăn như năm 2012. Lượng khách hàng đến Hoàng Thạch không giảm, nhưng nhiều khách hàng muốn mua chịu. Một số nhà máy xi măng không thuộc Vicem trên địa bàn Hải Dương do gặp khó khăn trong tiêu thụ, nên sẵn sàng bán phá giá (có lúc lên tới 500.000 đồng/tấn) cốt để thu hồi vốn, khiến chúng tôi không cạnh tranh nổi.

Cần khởi động lại các dự án công”

Ông Bùi Trần Đông, Tổng giám đốc Tổng công ty Công nghiệp Mỏ Việt Bắc (VVMI, thuộc Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam - Vinacomin)

Việc có thêm các nhãn hiệu xi măng mới ra mắt thị trường tại thời điểm 2011-2012 chưa gây ảnh hưởng nhiều tới Vinacomin, vì năm 2012, chúng tôi vẫn cố gượng được bằng cách đẩy mạnh bán hàng. Tuy nhiên, năm 2013 thì chưa có dấu hiệu gì sáng sủa cả.

Điều mà tôi băn khoăn là, sau khi dốc hết vốn vào xây dựng nhà máy, đến khi hoàn thành, liệu các dự án xi măng đang được triển khai, chuẩn bị đưa vào hoạt động cuối năm 2012, đầu năm 2013 có thể vào rơi cảnh không còn vốn lưu động để sản xuất. Trong khi đó, việc huy động vốn từ các ngân hàng sẽ rất khó, bởi trong giai đoạn này, các ngân hàng đều nói không với xi măng.

Nếu Chính phủ không nhanh chóng có những chính sách để khởi động lại các dự án đầu tư công, nới lỏng tín dụng cho thị trường bất động sản, thì nhiều dự án xi măng sẽ chết thảm trong năm tới và Vinacomin cũng không là trường hợp ngoại lệ.

Đưa xi măng vào các công trình giao thông

Ông Nguyễn Hoàng Thông, nguyên chuyên viên chính Vụ Công nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Vào năm 2005, thời điểm làm Quy hoạch Phát triển ngành xi măng giai đoạn 2005-2010, định hướng đến năm 2020, tôi đã đề nghị đưa xi măng vào các công trình giao thông, nhưng gần đây, mới thấy các bên đề cập chuyện này. Cứ như vậy, chẳng biết bao giờ xi măng mới vào được các công trình giao thông.

(Theo Đầu tư)

Thứ Tư, 26 tháng 12, 2012

Thị trường sẽ tốt lên!

Chương trình Phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN) qua hơn hai năm thực hiện đã từng bước đi vào cuộc sống, được nhiều DN lựa chọn. Tuy nhiên cho đến nay, sản phẩm này vẫn chưa được sử dụng rộng rãi trên thị trường. PV Báo Xây dựng đã có cuộc trao đổi với ông Lê Văn Tới - Vụ trưởng Vụ VLXD về vấn đề này.


Ông Lê Văn Tới

Xin ông cho biết tại sao phải thay thế gạch đất sét nung bằng các VLXKN?

- Gạch đất sét nung cần nguyên liệu đầu vào là đất sét và nhiên liệu nung là than. Một số nơi còn dùng củi, hoặc tận dụng trấu để nung gạch. Hàng năm chúng ta phải cần một số lượng vật liệu xây khổng lồ. Con số này cũng tăng tỷ lệ theo sự tăng trưởng đầu tư của xã hội.

Năm 2011 và năm 2012 là các năm chúng ta đang bị ảnh hưởng suy thoái kinh tế thế giới; cả nước phải thực hiện nhiều chính sách để tiết giảm tín dụng, cắt giảm đầu tư công… nhưng mỗi năm cả nước đã sử dụng tới 24 tỷ viên gạch xây quy tiêu chuẩn (QTC). Dự báo vào năm 2015 cả nước sẽ phải sử dụng gần 30 tỷ viên và năm 2020 khoảng 40 tỷ viên gạch QTC. Để sản xuất 1 tỷ viên gạch đất sét phải tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét, 0,15 triệu tấn than đồng thời thải ra bầu không khí trên nửa triệu tấn CO2. Nếu chúng ta sử dụng hoàn toàn gạch đất sét nung cho xây dựng thì chả mấy chốc sẽ cạn kiệt đất sét, tiêu tốn một khối lượng lớn than, những nguồn tài nguyên không tái tạo, đất canh tác bị thu hẹp, ảnh hưởng đến an ninh lương thực. Lượng khí thải do đốt gạch đã và sẽ càng gây ô nhiễm nghiêm trọng.

Ông đánh giá như thế nào về những thuận lợi và khó khăn khi triển khai chương trình VLXKN hiện nay?

- Tôi cho rằng chương trình VLXKN có nhiều thuận lợi khi triển khai thực hiện. Với những tính năng ưu việt như tiết kiệm được tài nguyên than, đất sét nung, thân thiện với môi trường… thì đây là sản phẩm sạch, có xu thế phát triển bền vững. Sử dụng VLXKN cũng là xu hướng chung của thời đại. Chương trình VLXKN được Chính phủ, các bộ, ngành quan tâm hưởng ứng. Tháng 4/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 567 phê duyệt Chương trình phát triển VLXKN đến năm 2020 (gọi tắt là chương trình 567); đến tháng 4/2012, Thủ tướng ban hành chỉ thị số 10 về việc Tăng cường sử dụng VLXKN và hạn chế sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung. Công nghệ sản xuất VLXKN ngày càng chuẩn hóa với công nghệ tiên tiến, năng suất cao…

Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện chương trình cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Do những khó khăn chung của kinh tế thế giới và trong nước nên khối lượng xây dựng nói chung và vật liệu xây nói riêng giảm thiểu so với những năm trước. Thêm nữa, do đây là sản phẩm mới nên các cấp chính quyền, chủ đầu tư, các nhà tư vấn, thiết kế và người dân chưa quen sử dụng. Thói quen sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung đã có từ ngàn năm nay không dễ thay đổi.

Bộ Xây dựng đã có những chính sách gì để thực hiện hiệu quả chương trình VLXKN, thưa ông?

- Mới đây nhất, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư 09 quy định sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng. Các hướng dẫn trong thông tư này sẽ tạo điều kiện cho các tỉnh, thành trong cả nước thực hiện chương trình 567 dễ dàng và thống nhất. Đối tượng áp dụng trong thông tư bước đầu là đối với những dự án đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước. Tôi cho rằng, khi đã tạo được thói quen sử dụng VLXKN thì việc phát triển ra các dự án có vốn ngoài nhà nước sẽ dễ dàng hơn. Việc ra đời Thông tư 09 cũng cho thấy, nếu chỉ áp dụng các biện pháp tuyên truyền không là chưa đủ mà cần có những biện pháp hành chính cụ thể.

Thị trường VLXKN hiện đang rất khó khăn, ông có khuyến cáo gì đối với các DN sản xuất sản phẩm này?

- Đối với VLXKN là gạch bê tông khí chưng áp, hiện nay công suất đã đáp ứng đủ nhu cầu - kể cả khi nhu cầu thị trường tăng đột biến. Vì vậy không nên đầu tư thêm vào thời điểm này, mà nên củng cố để ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm. Các nhà sản xuất gạch bê tông khí chưng áp đã có dịp và điều kiện tìm hiểu kỹ lưỡng về sản phẩm cũng như sử dụng chủng loại VLXD này, ban đầu nên theo sát các nhà thầu xây dựng sử dụng sản phẩm của mình, để góp ý và thậm chí là hướng dẫn để việc sử dụng loại vật liệu mới này đúng yêu cầu kỹ thuật. Có chủ đầu tư và một số nhà thầu xây dựng chưa hiểu hết tính năng cũng như hướng dẫn kỹ thuật đối với gạch bê tông khí chưng áp nên ngại sử dụng, thậm chí có sự tuyên truyền không đúng. Còn gạch xi măng cốt liệu (block bê tông) hoặc các chủng loại VLXKN khác sử dụng nguyên liệu là tro, xỉ hoặc các loại nguyên liệu sẵn có tại địa phương thì vẫn cần được nghiên cứu và đầu tư tiếp. Tuy nhiên hiện nay quan trọng nhất vẫn là tăng cường sử dụng VLXKN bởi thực tế trong hai năm vừa qua cho thấy sản xuất luôn luôn đáp ứng khi có nhu cầu sử dụng.

Ông nhận định như thế nào về thị trường VLXKN năm 2013?

- Theo tôi, năm 2013 kinh tế thế giới vẫn sẽ có những diễn biến khó lường, dự báo sẽ tiếp tục khó khăn. Ngành Xây dựng cũng không nằm ngoài bối cảnh đó. Vì thế việc sử dụng vật liệu xây có thể vẫn khó khăn, ít nhất là nửa đầu năm 2013. Tuy nhiên, việc sử dụng VLXKN sẽ có chiều hướng tốt lên. Từ tác động của Thông tư 09, cộng với công nghệ, mẫu mã sản phẩm ngày càng tốt lên, thị trường sẽ dần quen với chủng loại vật liệu mới này. Các cơ quan quản lý cũng thấy rõ trách nhiệm hơn trong việc thúc đẩy thực hiện chương trình này. Do đó, theo tôi, năm 2013 tỷ lệ sử dụng VLXKN sẽ tốt hơn năm 2012.

Xin cảm ơn ông!

Theo Vân Anh (Báo Xây dựng)

Labels

Accessories Adult English afghan Amigurumi amirugumi Ảnh Ảnh nội thất đẹp Anh quốc Art Art + Design Ẩm thực Ấn Độ Ba rọi chay baby crochet baby knitting Baby learn Bạc hà Bạch quả bag Bags balloons Bàn gỗ Bàn kính bàn ô sin Bàn sofa Bàn trà Bánh Bánh canh Bánh cuốn Bánh gạo Bánh mì Bánh mì vụn Bánh nướng Bánh phở Bánh quy oreo Bánh tráng cuốn chả giò Bánh tráng gỏi cuốn Bào ngư chay Bắp Bắp cải Bắp chuối Bắp hột Bắp hột khô Bắp non Bất động sản Bầu Bé học toán Bé tập vẽ Bé tô màu Bead belts Bí đao Bí đỏ Bo bo books booties bows boxes Bông cải trắng Bông cải xanh Bột báng Bột bắp Bột bắp vàng Bột cà-ri Bột cacao Bột càMón chính Bột củ năng Bột dâu tây Bột đậu garbanzo Bột đậu phộng Bột gạo Bột gluten bột hạnh nhân Bột khoai Bột làm bánh bò Bột mận ngọt Bột mì Bột mì căn Bột năng Bột nếp Bột nếp rang Bột nghệ Bột rau câu Bột tảo bẹ Bột trà xanh Bơ thực vật thuần chay bracelet Bún Bún gạo Bún Lo Shi Fun Bún tàu Cá chay Cà chua Cá me thuần chay Cá thuần chay Cà tím Cá viên thuần chay Cà-rốt Cách âm phòng karaoke Cải bẹ trắng Cải bẹ xanh Cải dúm Cải Đài Loan Cải đắng Cải làn Cải mù-tạc Cải muối chua Cải ngọt Cải Phú Quý Cải thảo cải Thượng Hải Cải xanh Trung Hoa cake Cam candles candy Cánh hoa sen Cards carving carving fruit carving fruits Cắm hoa Cắt may Cần tàu Cần tây Chà bông thuần chay Chả đậu hủ Chana dhal chandelier Chao Chân nấm đông cô Chất đạm chay Chí Lợi Chơi mà học Chuối clay Cỏ lúa mì coloring Coloring - Tô màu Cốm dẹp crafts crochet crochet pattern cross stitch Củ cải mặn Củ cải trắng Củ dền Củ hành Củ kiệu Củ năng Củ sắn Củ sen Cua chay Curtain cutting paper Dầu cháo quẩy Dâu tây Dịch vụ vệ sinh Doll Dolls Dolls - Búp bê drawing dress Dừa bào khô Dưa cải Dưa hấu Dưa leo Dừa non Dưa tây Đại Hàn Đan Đan len Đản sâm Đậu bắp Đậu cô-ve Đậu đen Đậu đỏ Đậu đũa Đậu garbanzo Đậu Hòa Lan Đậu hủ Đậu hủ Bách Hiệt Đậu hủ mềm Đậu hủ vàng Đậu nành Đậu nành non Đậu ngọt Đậu ninh Đậu phộng Đậu que Đậu rồng Đậu tằm Đậu trắng Đậu ván Đậu ve Đậu xanh Đệm ( nệm ) Đệm bông ép Đệm lò xo Đệm PE Đọt đậu Đu đủ Đu đủ xanh Đương quy Đường thốt nốt earring Easy dot Embroidery Embroidery - Thêu fashion Felt Floral arrangements - Cắm và bó hoa flower arrangement flowers crochet Flowers crochet - Móc hoa Folding boxes - Gấp hộp Folding paper Folding towels food food decor Funny Gà chay Gà thuần chay Gạo Gạo basmati Gạo bát bửu Gạo nếp Gạo nếp than garden Gấp giấy Gấp hộp Gấp khăn - Trang trí món ăn Giá Giá sà-lách Gia vị xá xíu Giấm gạo Giầy - Dép Giấy dán tường gift Gifts glass gloves Gối cho bé Gừng Hair hair clip Ham nhão thuần chay Ham thuần chay Hạnh nhân hat Hạt bí Hạt dẻ Hạt điều Hạt kê Hạt lanh Hạt lựu Hạt macadamia Hạt sen hats Hats - Mũ Hẹ Hoa Kỳ Họa sĩ nhí holiday craft holiday crafts home and garden Home decor - Trang trí nhà Hột lười ươi Hủ tiếu dai Jam cake jewelery jewelry Kết hạt Khăn - Mũ Khoai lang Khoai mì Khoai môn Khoai tây Khóm Khổ hoa Không gian đẹp Không nấu Kidney chay Kim châm Kimchi kirigami knitting knitting pattern knot Knot - Tết dây Kỷ tử Lá dứa La Hán chay Lá rong biển Làm + Trang trí bánh Lam do choi Làm đẹp Làm đồ chơi làm đồ chơi từ gỗ Làm hoa vải Làm thiệp Lõi mít Mã Lai macrame Magazine make up making flower making flowers Making flowers - Làm hoa Making toys Màn cửa Mắm chay Mắm tôm chay Măng khô Măng non Măng nước Măng tây Măng tươi Mật cây thùa Mẫu móc Me Me chín Mì ăn liền Mì căn Mì chay Mì hoành thánh Mì Nhật Mì Phúc Kiến Mì spaghetti Mì tươi chay Miso trắng Mít Mít non mittens mitterns Móc Móc đường riềm Móc khăn trải bàn Món Á Đông Món ăn chính Món ăn ngọt Món ăn nhẹ Món bún mì Món cháo Món chiên Món chính Món cơm Món cuốn Món điểm tâm Món gia vị Món gỏi Món hấp Món khai vị Món kho Món mắm Món nấu Món ngâm chua Món nướng Món súp và canh Món trẻ em Món xào Món xôi Món xốt Mông Cổ Mù-tạc Mù-tạc xanh wasabi Muối epson Mực thuần chay Mướp Mướp tây Mứt bí Mứt vỏ cam nail Nail art Nam Dương Nấm Nấm bào ngư Nấm cardoncello Nấm chay Nấm Đông Cô Nấm đông cô tươi Nấm hào Nấm hương Nấm khô Nấm kim Nấm linh chi Nấm mèo Nấm nút Nấm rơm Nấm tuyết necklace necklaces Nến trang trí Nếp Nghệ Nghệ thuật Ngón sen Ngũ cốc Ngũ vị hương Nhà đẹp Nhãn Nhãn khô Nhật Nhật Bản Nho Nho khô Nội thất Nội thất gia đình Nội thất gỗ Nội thất nhà bếp Nội thất phòng tắm Nội thất Văn Phòng Nui Nước cốt dừa or Origami Origrami Ô-liu Ớt bột Ớt chuông Ớt đỏ Ớt jalapeno Ớt khô Ớt Mễ xanh Ớt xanh painting Painting - Sơn màu Paper paper cut Patchwork Phim Phong thủy Phòng Trẻ Em Phổ tai Phở khô pictures pillow Pillows Pillows - Gối plastic Play and learn for baby poncho Quả bơ Quả hồng Quả kiwi Quả mận Que quế Quilling paper Quilt Rau cải thập cẩm Rau câu chân vịt Rau câu sợi Rau dền Rau muống Rau nhúc recycle recycling repair work Rêu biển ribbon Riềng ring rings Rong biển Rong biển cây rugs Sả Sà-lách Sà-lách Romaine Sà-lách son Sách tiếng anh cho bé Saigon Pearl Sắt thép thế giới Sắt thép Việt Nam Sâm Hoa Kỳ Sầu riêng scarves Scarves - Khăn sewing shawls shoes and sandals skirt skirts slippers soap socks Sofa Sofa giá rẻ Sofa giường Sofa thanh lý Su su Suôn chay Súp rau cải Sữa chua Sữa đậu nành Sườn thuần chay Sương sa sweater tablecloths Tai hồi Táo Tảo bẹ Táo T àu Táo Tàu Táo Tàu đỏ Táo xanh Tatting Tàu hủ ky Tàu hủ ky thắt gút Tàu xì Tâm linh Tân Gia Ba Tempeh Tết dây Thạch dừa Thạch rau câu Thái Lan Thanh long Thêu Thì là Thị trường nội thất Thiệp Thiết kế nhà đẹp Thiết kế phòng karaoke Thịt bò chay mỏng Thịt chay Thịt chay khô mỏng Thịt chay khô tròn Thịt chay nhão thuần chay Thịt chay vụn Thức uống Tin Tức Tóc tiên Tôm càng bơ thuần chay Tôm chay Tôm thuần chay Trái hồng Trang điểm Trang trí Trang trí cầu thang Trang trí nhà đẹp Trang trí nội thất Trang trí phòng khách Trang trí phòng làm việc Trang trí phòng ngủ Trúc sanh Trung Hoa Truyện tranh Túi xinh Tutorial Tutorial video Tươi sống Tương cà-ri Tương đậu cay Tương hột Tương hột cay Đại Hàn Tương miso TV underwear Valentine's day Vật liệu xây dựng Vệ sinh nội thất Vi cá thuần chay Video video tutorial Viên nếp Nguyên Tiêu Việt Nam Vỏ bưởi Vỏ dưa hấu weaving wedding wood wrapping and packaging Xi-rô cây thích Xoài Xoài xanh Xốt cà chua Xốt dầu hào chay Xốt mayonnaise thuần chay Xốt mận Xốt nướng chay Xốt Tom Yum chay Xúc-xích chay Ý Đại Lợi Yam cake Yến mạch